Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2025

Đức Thánh Cha Lêô XIV tại Thổ Nhĩ Kỳ: “Đất nước này là một cầu nối giữa Đông và Tây”

Đức Thánh Cha Lêô XIV tại Thổ Nhĩ Kỳ: “Đất nước này là một cầu nối giữa Đông và Tây”

Trong chuyến tông du đầu tiên ra ngoài nước Ý kể từ khi bắt đầu triều đại giáo hoàng vào tháng Năm, Đức Thánh Cha đã kêu gọi sự hiệp nhất xã hội, tôn trọng sự đa dạng, và bảo vệ công trình sáng tạo, trong cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo tại Ankara, nhân dịp kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nicea.

Đức Thánh Cha Lêô XIV tại Thổ Nhĩ Kỳ: “Đất nước này là một cầu nối giữa Đông và Tây”

*******

Đức Thánh Cha Lêô XIV đã thực hiện chuyến tông du quốc tế đầu tiên vào thứ Năm, đến thăm Thổ Nhĩ Kỳ như một cử chỉ mang tính biểu tượng để củng cố đối thoại liên tôn và tình huynh đệ toàn cầu. Được bầu chọn làm Người kế vị Thánh Phêrô vào ngày 8 tháng 5 năm 2015, và chính thức bắt đầu sứ vụ Phêrô với Thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô vào ngày 18 tháng 5, chuyến đi này đánh dấu hành trình đầu tiên Đức Thánh Cha ra ngoài nước Ý. Chuyến tông du, trong đó bao gồm cả chuyến thăm Li-băng, bắt đầu tại Ankara với một bài diễn văn đầy cảm xúc trước các nhà chức trách Thổ Nhĩ Kỳ, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn, nhấn mạnh vai trò lịch sử của Thổ Nhĩ Kỳ như là cái nôi của Kitô giáo và là một “nhịp cầu” giữa các châu lục và các nền văn hóa.

Trong hội trường phủ kín các đại diện chính phủ, các nhà lãnh đạo tôn giáo và nhà ngoại giao, Đức Thánh Cha Lêô XIV — người đã đảm nhận chức vụ giáo hoàng sau khi Đức Phanxicô qua đời vào năm 2024 — nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng “tình huynh đệ” trong một thế giới bị phân cực bởi xung đột và bất bình đẳng. “Vùng đất này gắn bó khăng khít với nguồn cội của Kitô giáo, và hôm nay, nó mời gọi những người con của Abraham và toàn thể nhân loại hướng đến một tình huynh đệ biết nhìn nhận và trân trọng những khác biệt,” Đức Thánh Cha tuyên bố trong phần mở đầu bài diễn văn, trước Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ và những người hiện diện.

Bài diễn văn, được trình bày bằng tiếng Anh với bản dịch tiếng Thổ Nhĩ Kỳ cùng lúc, tập trung vào hình ảnh cây cầu bắc qua Eo biển Dardanelles, biểu tượng chính thức của chuyến đi, như một ẩn dụ cho căn tính Thổ Nhĩ Kỳ. “Trước khi nối kết Châu Á với Châu Âu, Đông với Tây, cây cầu này kết nối Thổ Nhĩ Kỳ với chính mình,” đồng thời nhấn mạnh rằng sự đa dạng trong đất nước không phải là một yếu điểm, mà là một sự phong phú nuôi dưỡng các nền văn minh vĩ đại. Về vấn đề này, ngài cảnh báo chống lại “sự đồng nhất” làm nghèo nàn xã hội và ủng hộ một “văn hóa gặp gỡ,” lấy cảm hứng từ những lời dạy của vị tiền nhiệm là Đức Thánh Cha Phanxicô, và từ hình ảnh Thánh Gioan XXIII, được biết đến là “Vị Giáo hoàng của Thổ Nhĩ Kỳ” vì sứ vụ của ngài trong vai trò là Khâm sứ Tòa Thánh tại quốc gia này từ năm 1935 đến năm 1945.

Đức Thánh Cha Lêô XIV tại Thổ Nhĩ Kỳ: “Đất nước này là một cầu nối giữa Đông và Tây”

Đức Thánh Cha mở rộng thông điệp của mình sang các vấn đề toàn cầu cấp bách. Ngài kêu gọi bảo vệ công trình sáng tạo của Thiên Chúa trước vẻ đẹp thiên nhiên của Thổ Nhĩ Kỳ, chỉ trích “những tham vọng và lựa chọn chà đạp lên công lý và hòa bình.” Nhắc đến những tiến bộ của công nghệ, ngài cảnh báo về nguy cơ trí tuệ nhân tạo có thể “làm trầm trọng thêm sự bất công” nếu nó không được định hướng vì ích chung, tái tạo “những thiên vị của riêng chúng ta” thay vì thúc đẩy tình liên đới. Ngài tuyên bố: “Công lý và lòng thương xót thách thức não trạng ‘sức mạnh tạo nên lẽ phải’, và can đảm đòi hỏi rằng lòng trắc ẩn và tình liên đới phải là những tiêu chí đích thực cho sự phát triển,” đồng thời nhắc lại Thiên Chúa “giàu lòng thương xót và từ bi” của Thánh vịnh 103.

Đức Thánh Cha dành một chương đặc biệt cho gia đình, một trụ cột của văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ, như là “tế bào đầu tiên của đời sống xã hội” nơi giá trị của “người khác” được học hỏi. Ngài ca ngợi các sáng kiến ​​địa phương hỗ trợ hôn nhân và sinh sản, bác bỏ “các nền kinh tế tiêu thụ” biến sự cô đơn thành một ngành kinh doanh. Ngài cũng đề cao vai trò của phụ nữ trong xã hội Thổ Nhĩ Kỳ: “Qua việc học tập và tham gia tích cực vào đời sống chuyên môn, văn hóa và chính trị, phụ nữ phục vụ đất nước mình và tạo ra ảnh hưởng tích cực trên trường quốc tế.” Điểm nhấn mạnh sự bình đẳng và việc trao quyền cho phụ nữ hòa điệu với những nỗ lực hiện đại hóa xã hội của Thổ Nhĩ Kỳ, mặc dù những thách thức liên quan đến quyền giới tính và quyền tự do dân sự vẫn còn tồn tại.

Đức Thánh Cha Lêô XIV nhắc lại các chuyến viếng thăm của những vị tiền nhiệm — Đức Phaolô VI năm 1967, Đức Gioan Phaolô II năm 1979, Đức Bênêđictô XVI năm 2006, và Đức Phanxicô vào năm 2014 — như bằng chứng về “mối quan hệ tốt đẹp” giữa Tòa Thánh và Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ. Ngài khẳng định: “Chúng tôi mong muốn hợp tác xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn với sự đóng góp của đất nước này, một cầu nối giữa Đông và Tây, giữa Châu Á và Châu Âu, và là giao điểm của các nền văn hóa và tôn giáo.” Trong bối cảnh kỷ niệm Công đồng Nicea, ngài kêu gọi tinh thần đối thoại của tám công đồng đại kết đầu tiên được tổ chức trên vùng đất hiện nay là Thổ Nhĩ Kỳ, kêu gọi mọi người “thúc đẩy đối thoại với ý chí kiên định và quyết tâm bền bỉ.”

Đức Thánh Cha đã không né tránh những căng thẳng toàn cầu: ngài lên án một “cuộc thế chiến thứ ba diễn ra từng phần,” được nuôi dưỡng bởi các chiến lược quyền lực kinh tế và quân sự làm chệch hướng những nguồn lực khỏi những thách đố thật sự như hòa bình, cuộc chiến chống đói nghèo, y tế, giáo dục và bảo vệ môi trường. “Tương lai của nhân loại đang bị đe dọa. Chúng ta hoàn toàn không được phép đầu hàng điều này!” ngài cảm thán, và đề xuất rằng Tòa Thánh, với “sức mạnh tinh thần và luân lý,” sẽ cộng tác với các quốc gia cam kết phát triển toàn diện. Ngài kết luận trước cử tọa với tràng pháo tay nồng nhiệt: “Chúng ta hãy cùng nhau tiến bước, trong sự thật và tình bạn, khiêm nhường tin cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa.”

Đức Thánh Cha Lêô XIV tại Thổ Nhĩ Kỳ: “Đất nước này là một cầu nối giữa Đông và Tây”

Chuyến tông du kéo dài đến ngày 2 tháng 12 và bao gồm Li-băng, diễn ra vào thời điểm bất ổn của khu vực, được ghi dấu bởi các cuộc xung đột ở Trung Đông và căng thẳng di cư ở Địa Trung Hải. Sự hiện diện của Đức Lêô XIV tại Thổ Nhĩ Kỳ — một quốc gia có thiểu số Kitô giáo chỉ chiếm 0,2% trong 85 triệu dân — tái khẳng định cam kết của Giáo hội Công giáo đối với đại kết và đối thoại liên tôn, trong bối cảnh Hồi giáo Sunni chiếm ưu thế dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Recep Tayyip Erdoğan. Các nhà phân tích xem chuyến đi này là một cử chỉ tiếp nối di sản của Đức Thánh Cha Phanxicô, nhưng với trọng tâm mới nhấn mạnh vào “sự hiệp nhất của gia đình nhân loại” trước tình trạng phân cực toàn cầu.

Bài diễn văn đã được cộng đồng Công giáo địa phương, với khoảng 35.000 tín hữu đón nhận với sự lạc quan, và các nhà quan sát ngoại giao nhấn mạnh tiềm năng của Thổ Nhĩ Kỳ như một trung gian trong các cuộc khủng hoảng toàn cầu. Khi Đức Thánh Cha chuẩn bị cho cuộc hành hương đến İznik, thông điệp của ngài vang lên như một lời kêu gọi khẩn thiết về sự hòa giải trong một thế giới đang rạn nứt.

*******

CHUYẾN TÔNG DU CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV

TỚI THỔ NHĨ KỲ VÀ LI-BĂNG

VỚI CUỘC HÀNH HƯƠNG ĐẾN IZNIK (THỔ NHĨ KỲ)

NHÂN DỊP KỶ NIỆM 1700 NĂM CÔNG ĐỒNG ĐẠI KẾT NICEA I

(27 tháng 11 – 2 tháng 12 năm 2025)

GẶP GỠ CÁC NHÀ CHỨC TRÁCH, XÃ HỘI DÂN SỰ VÀ NGOẠI GIAO ĐOÀN
DIỄN VĂN CỦA ĐỨC THÁNH CHA
Ankara
Thứ Năm, ngày 27 tháng 11 năm 2025

____________________________________


Thưa ngài Tổng thống,

Thưa các nhà Lãnh đạo,

Thưa quý vị thành viên trong Ngoại giao đoàn,

Thưa quý ông và quý bà,

Xin chân thành cảm ơn sự chào đón nồng hậu của quý vị! Tôi rất vui mừng được bắt đầu các chuyến tông du trong triều giáo hoàng của tôi bằng việc đến thăm đất nước của quý vị, vì vùng đất này gắn bó khăng khít với nguồn cội của Kitô giáo, và hôm nay, nó mời gọi những người con của Abraham và toàn thể nhân loại hướng đến một tình huynh đệ biết nhìn nhận và trân trọng những sự khác biệt.

Vẻ đẹp tự nhiên của đất nước quý vị thúc giục chúng ta bảo vệ công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Hơn nữa, sự phong phú về văn hóa, nghệ thuật và tinh thần của những miền đất quý vị đang sinh sống nhắc nhở chúng ta rằng khi các thế hệ, các truyền thống và ý tưởng khác nhau gặp gỡ, những nền văn minh vĩ đại sẽ được hình thành, nơi sự phát triển và khôn ngoan hòa quyện thành sự hiệp nhất. Một mặt, đúng là lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều thế kỷ xung đột, và thế giới chung quanh chúng ta vẫn bị bất ổn bởi những tham vọng và lựa chọn chà đạp lên công lý và hòa bình. Đồng thời, khi đối diện với những thách đố, việc là một dân tộc có quá khứ vĩ đại như vậy vừa là một ân ban vừa là một trách nhiệm.

Hình ảnh cây cầu bắc qua Eo biển Dardanelles, được chọn làm biểu tượng cho chuyến đi của tôi, diễn tả một cách hùng hồn vai trò đặc biệt của đất nước quý vị. Quý vị giữ một vị trí quan trọng trong hiện tại và tương lai của Địa Trung Hải, và của toàn thế giới, trên hết là bằng việc trân quý sự đa dạng nội tại của mình. Ngay cả trước khi nối kết Châu Á với Châu Âu, Đông với Tây, cây cầu này kết nối Thổ Nhĩ Kỳ với chính mình. Nó liên kết các miền khác nhau của đất nước, khiến cho đất nước này từ bên trong, có thể nói, trở thành một “giao điểm của những cảm thức.” Trong bối cảnh như vậy, sự đồng nhất sẽ trở thành sự nghèo nàn. Thật vậy, một xã hội chỉ sống động nếu nó có sự đa dạng, vì điều làm cho nó trở thành một xã hội dân sự chính là những nhịp cầu liên kết con người với nhau. Thế nhưng, ngày nay, các cộng đồng nhân loại ngày càng bị phân cực và bị xé nát bởi những quan điểm cực đoan làm chúng bị phân mảnh.

Tôi xin khẳng định với quý vị rằng người Kitô hữu mong muốn đóng góp tích cực vào sự hiệp nhất của đất nước quý vị. Họ là, và họ cảm nhận mình là thành phần của căn tính Thổ Nhĩ Kỳ, điều mà Thánh Gioan XXIII đã đánh giá rất cao, người mà quý vị nhớ đến là “vị Giáo hoàng của Thổ Nhĩ Kỳ” vì tình bạn sâu đậm gắn bó ngài với dân tộc của Quý vị. Ngài là Giám quản Hạt Đại diện Tông tòa Latinh Istanbul và Khâm sứ Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp từ năm 1935 đến năm 1945, và đã làm việc không mệt mỏi để bảo đảm rằng người Công giáo không tự tách mình ra khỏi sự phát triển của nền Cộng hòa non trẻ của quý vị. Trong những năm ấy, ngài đã viết rằng tại quốc gia này, “chúng tôi, những người Công giáo Latinh ở Istanbul, cùng với người Công giáo thuộc các nghi lễ khác, Armenia, Hy Lạp, Canđê, Syria, v.v., là một thiểu số khiêm tốn sống trên bề mặt của một thế giới rộng lớn mà chúng tôi chỉ có những tiếp xúc hạn chế. Chúng tôi thường tự phân biệt mình với những người không tuyên xưng cùng đức tin của chúng tôi: những anh em Chính thống, Tin lành, Do Thái, Hồi giáo, các tín đồ thuộc các tôn giáo khác và những người không tin … Xem ra có vẻ hợp lý khi mỗi người nên lo việc riêng của mình, truyền thống gia đình hoặc dân tộc mình, giữ mình trong vòng giới hạn của cộng đồng riêng … Thưa anh chị em rất thân mến, các con thân mến, tôi phải nói với anh chị em rằng dưới ánh sáng của Tin Mừng và các nguyên tắc Công giáo, đây là một lập luận sai lầm.”[1] Kể từ đó, những bước tiến lớn đã được thực hiện trong Giáo hội và trong xã hội của quý vị, và những lời đó vẫn vang lên mạnh mẽ trong thời đại chúng ta, và tiếp tục truyền cảm hứng cho một cách suy nghĩ mang tinh thần Tin Mừng và chân thực hơn, điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô gọi là “văn hóa gặp gỡ.”

Thật vậy, từ trung tâm Địa Trung Hải, vị tiền nhiệm khả kính của tôi đã phản đối tình trạng “toàn cầu hóa sự thờ ơ,” bằng cách mời gọi chúng ta cảm nhận nỗi đau của người khác, và lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và của trái đất. Do đó, ngài khuyến khích chúng ta hành động với lòng trắc ẩn, đó là sự phản chiếu chính Thiên Chúa duy nhất, Đấng giàu lòng thương xót và từ bi, “chậm giận và giàu tình thương” (Tv 103:8). Hình ảnh cây cầu vĩ đại của quý vị cũng hữu ích theo nghĩa này, vì Thiên Chúa, khi tỏ mình ra, đã thiết lập một nhịp cầu giữa trời và đất. Người làm như vậy để trái tim chúng ta có thể được biến đổi, trở nên giống như trái tim của Người. Đó là một cây cầu treo rộng lớn, gần như thách thức các quy luật vật lý. Tương tự như vậy, ngoài những khía cạnh riêng tư và mật thiết, tình yêu cũng mang một chiều kích hữu hình và công khai.

Hơn nữa, công lý và lòng thương xót thách thức não trạng “sức mạnh tạo nên lẽ phải,” và can đảm đòi hỏi rằng lòng trắc ẩn và tình liên đới phải được xem là những tiêu chí đích thực cho sự phát triển. Vì lý do này, trong một xã hội như Thổ Nhĩ Kỳ, nơi tôn giáo đóng một vai trò hữu hình, điều cần thiết là phải tôn vinh phẩm giá và quyền tự do của tất cả con cái Thiên Chúa, cả nam và nữ, đồng bào và người nước ngoài, người nghèo và người giàu. Tất cả chúng ta đều là con cái của Thiên Chúa, và điều này bao hàm cá nhân, xã hội và chính trị. Những người có tâm hồn vâng nghe trước ý muốn của Thiên Chúa luôn thúc đẩy ích chung và tôn trọng tất cả mọi người. Ngày nay, đây là một thách đố lớn, phải định hình lại các chính sách địa phương và quan hệ quốc tế, đặc biệt trước những phát triển của công nghệ, mà nếu không như vậy, nó có thể làm trầm trọng thêm tình trạng bất công thay vì giúp vượt qua nó. Ngay cả trí tuệ nhân tạo cũng chỉ đơn giản là tái tạo những sở thích của riêng chúng ta và đẩy nhanh những tiến trình, mà khi xét kỹ hơn, không phải là công trình của máy móc, nhưng của chính con người. Vì vậy, chúng ta hãy cùng nhau làm việc để thay đổi hướng đi của sự phát triển và khắc phục những tổn hại đã gây ra cho sự hiệp nhất của gia đình nhân loại chúng ta.

Thưa quý vị, tôi vừa đề cập đến gia đình nhân loại. Phép ẩn dụ này mời gọi chúng ta thiết lập một sự kết nối – một lần nữa, là một nhịp cầu – giữa vận mệnh chung của chúng ta và kinh nghiệm của mỗi cá nhân. Thật vậy, đối với mỗi người chúng ta, gia đình là tế bào đầu tiên của đời sống xã hội, nơi chúng ta học được rằng không có “người khác” thì không có “tôi.” Gia đình vẫn giữ tầm quan trọng lớn trong văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ hơn ở các quốc gia khác, và không thiếu những sáng kiến ​​hỗ trợ vai trò trung tâm của gia đình. Thật vậy, những thái độ thiết yếu cho sự chung sống dân sự, cùng với cảm thức ban đầu và nền tảng về ích chung, được trưởng thành chính trong gia đình. Tất nhiên, mọi gia đình cũng có thể khép kín trong bản thân, nuôi dưỡng sự thù địch, hoặc ngăn cản một số thành viên thể hiện chính mình đến mức cản trở sự phát triển những tài năng của họ. Tuy nhiên, con người không có nhiều cơ hội hơn hoặc hạnh phúc hơn ở một nền văn hóa theo cá nhân chủ nghĩa, cũng không phải bằng cách tỏ thái độ khinh rẻ hôn nhân hay khước từ mở lòng đón nhận sự sống.

Hơn nữa, các nền kinh tế tiêu thụ có tính lừa dối ở chỗ nó biến sự cô đơn thành một ngành kinh doanh. Chúng ta phải đáp lại điều này bằng một nền văn hóa trân quý tình cảm và sự kết nối cá nhân. Bởi chỉ khi cùng nhau, chúng ta mới có thể trở thành con người thật của mình. Chỉ qua tình yêu, đời sống nội tâm của chúng ta mới trở nên sâu sắc và căn tính của chúng ta mới trở nên mạnh mẽ. Những ai coi thường các mối liên kết cơ bản của con người, và không học cách chấp nhận những giới hạn và sự mong manh của bản thân, sẽ dễ trở nên bất khoan dung và không thể tương tác với thế giới phức tạp của chúng ta. Đồng thời, chính trong đời sống gia đình mà giá trị của tình yêu vợ chồng và sự đóng góp của phụ nữ nổi bật lên một cách rõ nét. Đặc biệt, qua việc học tập và tham gia tích cực vào đời sống chuyên môn, văn hóa và chính trị, phụ nữ đang ngày càng dấn thân vào việc phục vụ đất nước quý vị, và có ảnh hưởng tích cực trên trường quốc tế. Do đó, chúng ta phải đánh giá cao những sáng kiến ​​quan trọng trong lãnh vực này, nhằm hỗ trợ gia đình và sự đóng góp của phụ nữ cho sự triển nở toàn diện của đời sống xã hội.

Thưa Ngài Tổng thống, ước mong Thổ Nhĩ Kỳ trở thành một nguồn mạch của sự ổn định và xích lại gần nhau giữa các dân tộc, phục vụ một nền hòa bình công bằng và dài lâu. Các chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ của bốn vị Giáo hoàng – Đức Phaolô VI năm 1967, Đức Gioan Phaolô II năm 1979, Đức Bênêđictô XVI năm 2006 và Đức Phanxicô năm 2014 – cho thấy Tòa Thánh không chỉ duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, mà còn mong muốn hợp tác xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn với sự đóng góp của đất nước này, là một cầu nối giữa Đông và Tây, giữa Châu Á và Châu Âu, và là giao điểm của các nền văn hóa và tôn giáo. Dịp đặc biệt trong chuyến viếng thăm của tôi, kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nicea, nhắc chúng ta về sự gặp gỡ và đối thoại, cũng như tám công đồng đại kết đầu tiên đã được tổ chức trên các vùng đất của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.

Ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng ta cần những người thúc đẩy đối thoại và thực hành đối thoại với ý chí kiên định và quyết tâm kiên trì. Sau những thảm kịch của hai cuộc thế chiến, vốn đã dẫn đến ​​việc thành lập các tổ chức quốc tế lớn, giờ đây chúng ta đang trải qua một giai đoạn được ghi dấu bằng mức độ xung đột gia tăng trên bình diện toàn cầu, được nuôi dưỡng bởi các chiến lược quyền lực kinh tế và quân sự đang chi phối. Việc này đang tạo đà cho điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô gọi là “cuộc thế chiến thứ ba diễn ra từng phần.” Chúng ta hoàn toàn không được phép đầu hàng điều này! Tương lai của nhân loại đang bị đe dọa. Năng lượng và nguồn lực bị cuốn vào động lực hủy diệt ấy đang bị chuyển hướng khỏi những thách đố thực tế mà gia đình nhân loại lẽ ra phải cùng nhau đối mặt hôm nay, cụ thể là hòa bình, cuộc chiến chống đói nghèo, y tế và giáo dục, và bảo vệ công trình sáng tạo.

Tòa Thánh, với sức mạnh tinh thần và luân lý của mình, mong muốn hợp tác với tất cả các quốc gia luôn quan tâm đến sự phát triển toàn diện của mỗi con người. Vậy chúng ta hãy cùng nhau tiến bước, trong sự thật và tình bạn, khiêm nhường tin cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa.

Xin cảm ơn Quý vị.

________________________

[1] Angelo G. Roncalli (John XXIII), La predicazione a Istanbul. Omelie, discorsi e note pastorali (1935-1944), Olschki, Firenze 1993, 367-368.


[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 28/11/2025]


Bạn có biết Li-băng xuất hiện hơn 70 lần trong Kinh Thánh?

Bạn có biết Li-băng xuất hiện hơn 70 lần trong Kinh Thánh?

Bạn có biết Li-băng xuất hiện hơn 70 lần trong Kinh Thánh?

tyson4ik | Shutterstock

Libanon slovi po cedrah.


Camille Dalmas

26/11/25


Từ ngày 30 tháng 11 đến ngày 2 tháng 12, Đức Thánh Cha Lêô XIV sẽ đến thăm Li-băng trong chuyến tông du quốc tế đầu tiên của ngài. “Xứ sở của những cây Tuyết tùng” chiếm một vị trí quan trọng trong Thánh Kinh.

Dù chỉ xuất hiện trong Cựu Ước, Li-băng được nhắc đến 71 lần trong Kinh Thánh. Dãy núi chiếm phần lớn lãnh thổ đất nước này được các ngôn sứ mô tả như một trong những đường biên tự nhiên của miền Đất Hứa mà Thiên Chúa ban cho dân Israel.

“Mọi nơi bàn chân anh em giẫm lên sẽ là của anh em: từ sa mạc và núi Li-băng, từ Sông Cả, là sông Êu-phơ-rát, cho đến Biển Tây” (Đnl 11:24), ông Môsê tuyên bố như vậy sau cuộc xuất hành khỏi Ai Cập.

Người kế vị ông Môsê, là ông Giôsuê, thậm chí đã gộp cả “Ba-an Gát, trong thung lũng Li-băng” vào lãnh thổ này. Dù vị trí chính xác của thành, điểm cực bắc các vùng đất của dân Do Thái, vẫn chưa được xác định, một số giả thuyết cho rằng nó nằm ở phía nam Thung lũng Bekaa của Li-băng.

Xứ sở của những cây tuyết tùng (hương bá)

Trong Kinh Thánh, Li-băng cũng thường được gắn liền với những rừng tuyết tùng hùng vĩ mọc trên các sườn núi. Được nhắc đến 75 lần, loại cây ngày nay hiện diện trên quốc kỳ Li-băng từng là nguồn tài nguyên kinh tế chủ chốt của vùng Cận Đông thời đó.

Thật vậy, vua Salômôn đã dùng loại gỗ hương bá để xây Đền thờ Giêrusalem, thánh địa linh thiêng nhất của Do Thái giáo thời cổ, cũng như cung điện của vị quân vương khôn ngoan này. Để thực hiện các công trình đó, vua Salômôn đã sai hàng chục ngàn người Do Thái đến gặp vua Hiram xứ Tia (Tyre) của Li-băng để vận chuyển những thân gỗ quý giá.

Bạn có biết Li-băng xuất hiện hơn 70 lần trong Kinh Thánh?

Sasca | Shutterstock

Danh tiếng về vẻ đẹp của những cánh rừng tuyết tùng Li-băng được phản chiếu trong những câu thơ thi vị nhất của Kinh Thánh. Như trong Thánh Vịnh 92, nơi mô tả người công chính “lớn mạnh như hương bá Li-băng” và vẫn sinh hoa kết quả dù tuổi đã xế chiều, giống như những loài cây này vẫn “tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn” (Tv 92:13-16).

Trong Thánh Vịnh 104, những cánh rừng Li-băng trở thành hình ảnh cho sự tuyệt mỹ của công trình tạo dựng của Thiên Chúa: “Hương bá Li-băng, những cây CHÚA đã trồng, được tràn trề nhựa sống. Bầy chim tước rủ nhau làm ổ...” (Tv 104:16-17).

Hình ảnh của tình yêu và vẻ đẹp

Trong Sách Diễm Ca, sự phong phú của Li-băng vang vọng trong khúc hát tình yêu của tân lang dành cho người mình yêu. Diễn tả tất cả những rung cảm và khao khát, người đàn ông say mê trước vẻ đẹp của vợ mình, ví đôi môi nàng như sữa và mật ong, và nói rằng “Áo em toả hương thơm ngào ngạt tựa hương núi Li-băng” (Dc 4:11).

Người yêu ví hiền thê của mình như một khu vườn cấm, một mạch suối niêm phong, “Em là giếng nước giữa hoa viên, là hồ chứa nước nguồn từ dãy núi Li-băng chảy xuống” (Dc 4:15). Và về phần nàng, nàng chiêm ngắm người mình yêu, ngắm đôi chân chàng, tựa như “đôi trụ bạch ngọc dựng trên đế vàng ròng,” và diện mạo chàng “tựa núi Li-băng, kiêu hùng như ngàn cây hương bá” (Dc 5:15).

Vẻ đẹp của vùng đất Li-băng cũng khơi nguồn cảm hứng cho các ngôn sứ Ben Sira, Hôsê và Na-khum, những người đã ca ngợi hương thơm, tiếng tăm của rượu và sự tinh tế của thảm thực vật nơi đây.

Tấm gương phản chiếu quyền năng của Thiên Chúa

Về phần mình, ngôn sứ Isaia nhìn thấy Li-băng xanh tươi như một minh chứng cho sức mạnh thiên nhiên mà chỉ Thiên Chúa mới có thể thống trị. “Này đây Chúa Thượng là Đức Chúa các đạo binh, dùng uy vũ chặt lá cành: ngọn cao sẽ bị đốn, đỉnh kiêu kỳ bị hạ. Các bụi rậm trong rừng sẽ bị chặt bằng đồ sắt, và núi Li-băng gục ngã bởi một Đấng oai hùng” (Is 10:33-34).

Tương tự, “Chúa đánh gãy ngàn hương bá Li-băng” (Tv 29:5), và quyền năng của Người khiến chúng chao đảo như “đầy dư gạo thóc” (Tv 72:16). Ngôn sứ Giêrêmia cũng khẳng định rằng Thiên Chúa có khả năng biến những đỉnh núi trắng xóa của Li-băng thành sa mạc khô cằn (Gr 22:6).

Một số đoạn văn liên kết Li-băng với đời sống hoang dã, như ngôn sứ Isaia thuật lại sự có mặt của sư tử và báo trên các ngọn núi. Trên các đỉnh núi Li-băng, chúng ta cũng tìm thấy “con phượng hoàng to lớn có cánh rộng, lông dài, mình đầy lông sặc sỡ,” được nhắc đến bởi ngôn sứ Êdêkien, và nói rằng phượng hoàng đậu trên “ngọn cây hương bá” (Êd 17:3).

Sự hùng vĩ tự nhiên tuyệt đẹp ấy thường cúi mình trước sự toàn năng của Thiên Chúa: “Cây rừng Li-băng không đủ đốt của lễ, thú rừng Li-băng chẳng đủ làm lễ vật toàn thiêu”, ngôn sứ I-sai-a quả quyết, để tôn vinh hơn nữa sự vĩ đại của Thiên Chúa, Đấng còn bao la hơn cả “ánh huy hoàng của núi Li-băng” (Is 40:16; Is 35:2).

Và trong Tân Ước thì sao?

Li-băng không được nhắc đến một cách rõ ràng trong Tân Ước. Tuy nhiên, vùng đất này vẫn được đề cập cách gián tiếp.

Thị trấn Cana, nơi Chúa Giê-su thực hiện phép lạ đầu tiên, biến nước thành rượu tại một tiệc cưới, có thể tương ứng với thị trấn Qana ngày nay tại miền nam Li-băng. Tuy nhiên, nó cũng có thể tương ứng với Kafr Cana hoặc Khirbet Cana ở Israel.

Các nhà khảo cổ học vẫn chưa đi đến kết luận cuối cùng, nhưng ông Antonio Andary thuộc Quỹ Maronite ủng hộ giả thuyết về Cana thuộc Li-băng. Ông cũng tin rằng Chúa Giêsu có thể đã đặt chân đến Li-băng trong những dịp khác, đặc biệt là khi Ngài gặp người phụ nữ Canaan, biến cố mà ông tin rằng đã diễn ra gần vùng Xi-đôn (Sidon).

Cuối cùng, ông khẳng định rằng biến cố Hiển Dung có thể đã diễn ra trên đỉnh núi Hebron, một ngọn núi thuộc cao nguyên Golan nằm một phần ở Li-băng và Syria (nhưng đã bị Israel chiếm đóng từ năm 2024). Tuy nhiên, địa điểm theo truyền thống là núi Ta-bo (Tabor) ở Israel.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 27/11/2025]


Tiếp kiến chung ngày 26.11.2025 - Đức Thánh Cha: Chúng ta cần tin tưởng vào sự sống!

Đức Thánh Cha: Chúng ta cần tin tưởng vào sự sống!

Tiếp kiến chung ngày 26.11.2025 - Đức Thánh Cha: Chúng ta cần tin tưởng vào sự sống!

Antoine Mekary | ALETEIA


I.Media

26/11/25


Đức Thánh Cha Lêô suy tư về mầu nhiệm sự sống, lòng trung tín của Thiên Chúa, và cách thức niềm hy vọng trao năng lượng cùng sức mạnh để tiếp tục tiến bước.

Sự sống không phải là “một mối đe dọa” hay “một dấu ngoặc đơn giữa hai đêm trường bất tận”, Đức Thánh Cha Lêô XIV nói trong buổi tiếp kiến chung ngày 26 tháng 11 năm 2025. Trước hàng chục ngàn tín hữu tham dự buổi gặp gỡ hàng tuần, Đức Thánh Cha đã khích lệ mọi người hãy sống trong niềm hy vọng, bất chấp những khó khăn của đời sống thường nhật.

Trong bài giáo lý, Đức Lêô XIV tập trung vào “một căn bệnh đang lan rộng”: tình trạng thiếu niềm tin vào sự sống.

Ngài nói: “Dường như chúng ta đã cam chịu một định mệnh tiêu cực, một sự từ bỏ,” và lưu ý rằng sự sống không còn được xem là “một cơ hội” mà “gần như là một mối đe dọa mà chúng ta phải tự bảo vệ mình để không bị thất vọng.”

Vị đứng đầu Giáo hội Công giáo đồng ý rằng việc nhìn cuộc sống “với niềm hy vọng” là điều “không phải lúc nào cũng dễ dàng hay hiển nhiên,” và thừa nhận rằng kể từ thời nguyên tổ, nó đã là “một bi kịch.”

Mặc dù có “những vấn đề và trở ngại cần vượt qua,” Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến chiều kích mầu nhiệm của sự sống, điều mà con người được lãnh nhận mà không tự mình tạo ra.

Đón nhận và bảo vệ trẻ em

Trong bài suy niệm, Đức Lêô XIV khuyến khích “lòng can đảm để sống và để sinh ra.” Đặc biệt, ngài mời gọi các tín hữu hãy mạnh dạn dấn thân vào “cuộc phiêu lưu kỳ diệu của việc làm mẹ và làm cha, ngay cả trong những bối cảnh xã hội nơi các gia đình phải vất vả mang trên mình gánh nặng của cuộc sống hàng ngày, thường bị cản trở trong các kế hoạch và ước mơ của họ.”

“Ước mong rằng các gia đình của anh chị em không bao giờ thiếu lòng can đảm để đưa ra những quyết định liên quan đến thiên chức làm cha và làm mẹ,” Đức Thánh Cha nhấn mạnh khi ngỏ lời chào các tín hữu hành hương Ba Lan. Ngài cũng thúc giục họ hãy “đón nhận và bảo vệ các thai nhi.”

Theo Đức Thánh Cha, sự sống “cần luôn phải được nuôi dưỡng: nó cần sự chăm sóc để nâng đỡ, tiếp sinh lực, bảo vệ và phục hồi nó.”

Tín thác vào Thiên Chúa

Trước đám đông khổng lồ phủ kín Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng đã bày tỏ xác tín rằng sự sống không phải là “một dấu ngoặc đơn giữa hai đêm trường bất tận.” Ngài thúc giục mọi người hãy “tín thác vào Thiên Chúa của sự sống,” Đấng mà ngài mô tả là “một Người Cha đã tạo dựng nên chúng ta vì Ngài yêu thương chúng ta và muốn chúng ta được hạnh phúc.”

Đức Lêô XIV khẳng định rằng trong khi các mối tương quan của con người bị ghi dấu bởi “lòng ghen tuông, đố kỵ, đổ máu [...], bản năng mù quáng của bạo lực trong chiến tranh, phân biệt đối xử, phân biệt chủng tộc, và bao nhiêu hình thức nô lệ,” thì luận lý của Thiên Chúa “hoàn toàn khác biệt”. Thiên Chúa là Đấng “trung tín” và “không bao giờ mệt mỏi trong việc nâng đỡ nhân loại.”

Buổi tiếp kiến diễn ra ngay trước ngày Đức Thánh Cha lên đường cho chuyến tông du quốc tế đầu tiên của ngài, chuyến đi sẽ đưa ngài đến Thổ Nhĩ Kỳ và Li-băng từ ngày 27 tháng 11 đến ngày 2 tháng 12.

Kết thúc buổi gặp gỡ, Đức Lêô XIV nhắc đến chuyến đi tới “những quốc gia giàu truyền thống lịch sử và thiêng liêng này,” và xin các tín hữu đồng hành với ngài bằng lời cầu nguyện.

Dưới đây là toàn văn huấn từ của ngài:

_________________________________


Anh chị em thân mến, chào anh chị em và chào mừng anh chị em!

Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô chiếu soi mầu nhiệm sự sống và cho phép chúng ta nhìn sự sống với niềm hy vọng. Điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng hay hiển nhiên. Ở khắp nơi trên thế giới, nhiều cuộc đời đầy nhọc nhằn, đau thương, chất chứa những vấn đề và trở ngại cần phải vượt qua. Tuy nhiên, con người lãnh nhận sự sống như một món quà: họ không xin, họ không chọn, họ trải nghiệm nó trong mầu nhiệm sự sống từ ngày đầu tiên cho đến ngày cuối cùng. Sự sống có tính đặc thù phi thường của riêng nó: nó được trao ban cho chúng ta, chúng ta không thể tự ban cho chính mình, nhưng sự sống phải được nuôi dưỡng không ngừng: nó cần sự chăm sóc để nâng đỡ, để tiếp sinh lực, bảo vệ và phục hồi nó.

Thật vậy, sống đòi hỏi có ý nghĩa, định hướng, và hy vọng. Và niềm hy vọng đóng vai trò như động lực sâu xa giúp chúng ta tiếp tục bước đi trong gian khó, ngăn chúng ta không bỏ cuộc trước sự mệt mỏi của hành trình, giúp chúng ta chắc chắn rằng cuộc lữ hành đời này sẽ dẫn chúng ta về nhà. Không có hy vọng, cuộc sống có nguy cơ trở thành một dấu ngoặc đơn giữa hai đêm trường vô tận, một khoảng dừng ngắn ngủi giữa lúc khởi đầu và lúc kết thúc của hành trình chúng ta nơi trần thế. Trái lại, hy vọng vào sự sống nghĩa là hướng về đích điểm, là tin tưởng chắc chắn vào những gì chúng ta vẫn chưa thể nhìn thấy hay chạm tới, là tin cậy và phó thác bản thân vào tình yêu của một Người Cha, Đấng đã tạo dựng chúng ta vì Ngài yêu thương chúng ta, và muốn chúng ta được hạnh phúc.

Các bạn thân mến, có một căn bệnh đang lan rộng trên thế giới: thiếu niềm tin vào sự sống. Dường như chúng ta đã cam chịu theo một thuyết định mệnh tiêu cực, một sự từ bỏ. Sự sống có nguy cơ không còn được xem là một ân ban, mà là một điều vô định, gần như một mối đe dọa mà từ đó chúng ta phải tự bảo vệ mình để không bị thất vọng. Vì thế, lòng can đảm để sống và để sinh ra sự sống, để làm chứng rằng Thiên Chúa là “Đấng yêu sự sống”, như Sách Khôn Ngoan (11:26) khẳng định, ngày nay là một lời mời gọi cấp thiết hơn bao giờ hết.

Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu luôn luôn cho thấy sự quan tâm của Ngài đối với việc chữa lành những kẻ ốm đau, phục hồi những thân xác và tâm hồn bị thương tổn, và trả lại sự sống cho kẻ chết. Bằng cách đó, Chúa Con Nhập Thể mạc khải về Chúa Cha: Ngài khôi phục phẩm giá cho tội nhân, ban ơn tha thứ tội lỗi, và bao gồm tất cả mọi người, đặc biệt là những ai tuyệt vọng, những người bị loại trừ, những ai đang xa cách lời hứa cứu độ của Ngài.

Được Chúa Cha sinh ra, Đức Kitô là sự sống và đã trao ban sự sống tràn đầy, đến mức hiến dâng chính mạng sống mình, và Ngài cũng mời gọi chúng ta hiến dâng đời sống. Sinh ra sự sống nghĩa là đưa một người khác vào sự sống. Vũ trụ của các sinh linh đã mở rộng theo quy luật này, quy luật mà trong bản giao hưởng của các thụ tạo đã trải nghiệm một “crescendo” (sự tăng tiến) tuyệt vời lên đến đỉnh điểm trong bản song ca của người nam và người nữ: Thiên Chúa đã tạo dựng họ theo hình ảnh của Ngài và trao phó cho họ sứ mạng sinh sản theo hình ảnh Ngài, nghĩa là trong tình yêu và vì tình yêu.

Ngay từ đầu, Kinh Thánh mạc khải cho chúng ta thấy rằng sự sống, đặc biệt nơi hình thái cao nhất của nó, hình thái con người, lãnh nhận món quà tự do và trở thành một bi kịch. Theo cách này, các mối tương quan của con người cũng bị ghi dấu bởi những mâu thuẫn, thậm chí đến mức huynh đệ tương tàn. Cain coi người em Aben là một đối thủ, một mối đe dọa, và trong sự thất vọng, Cain cảm thấy không thể yêu thương và tôn trọng em mình. Ở đây chúng ta nhìn thấy sự ghen tuông, đố kỵ và đổ máu (St 4:1-16). Ngược lại, luận lý của Thiên Chúa hoàn toàn khác biệt. Thiên Chúa luôn trung tín với kế hoạch yêu thương và sự sống của Ngài; Ngài không mệt mỏi trong việc nâng đỡ nhân loại, ngay cả khi nhân loại, đi theo vết xe đổ của Cain, tuân theo bản năng mù quáng của bạo lực trong chiến tranh, phân biệt đối xử, phân biệt chủng tộc, và muôn hình thức nô lệ.

Vì thế, sinh ra sự sống nghĩa là tin tưởng vào Thiên Chúa của sự sống và thăng tiến nhân tính trong mọi cách biểu hiện của nó: trước hết là trong cuộc phiêu lưu tuyệt vời của việc làm cha và làm mẹ, ngay cả trong những bối cảnh xã hội nơi các gia đình phải vất vả mang trên mình gánh nặng của cuộc sống thường nhật, thường bị cản trở trong các kế hoạch và ước mơ của họ. Theo cùng luận lý này, sinh ra sự sống là cam kết xây dựng một nền kinh tế dựa trên tình liên đới, nỗ lực vì một ích chung được chia sẻ cách bình đẳng cho tất cả mọi người, tôn trọng và chăm sóc thụ tạo, đem lại sự an ủi qua việc lắng nghe, hiện diện, và trợ giúp cụ thể, vô vị lợi.

Anh chị em thân mến, sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô là sức mạnh nâng đỡ chúng ta trong thách đố này, ngay cả khi bóng tối của sự dữ che phủ tâm trí. Khi sự sống dường như đã bị dập tắt, bị ngăn trở, Chúa Phục Sinh vẫn đi ngang qua, cho đến tận thế, và bước đi cùng chúng ta và vì chúng ta. Ngài là niềm hy vọng của chúng ta.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 27/11/2025]


Thứ Năm, 27 tháng 11, 2025

Năm Thánh của các Ca đoàn - Đức Lêô XIV: Âm nhạc như một con đường hiệp hành của đức tin và niềm vui

Đức Lêô XIV: Âm nhạc như một con đường hiệp hành của đức tin và niềm vui

Trong Năm Thánh của các Ca đoàn. Bài giảng Lễ trọng Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ trụ: Hát như diễn tả tình yêu và sự hiệp nhất của Giáo hội

Năm Thánh của các Ca đoàn - Đức Lêô XIV: Âm nhạc như một con đường hiệp hành của đức tin và niềm vui

*******

Trong bối cảnh Năm Thánh 2025, Quảng trường Thánh Phêrô vào Chúa nhật này, ngày 23 tháng 11, được biến thành một sân khấu mênh mông của lời ca khen và hòa điệu, nơi hơn 60.000 tín hữu, khách hành hương và các ca viên từ khắp nơi trên thế giới quy tụ để cử hành Năm Thánh của các Ca đoàn và Đội Hợp xướng. Đức Thánh Cha Lêô XIV đã chủ sự Thánh lễ nhân Đại lễ Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ trụ, và trong bài giảng, ngài đã gửi gắm một thông điệp rất xúc động đến các nhạc sĩ phụng vụ và ca viên, mời gọi họ xem việc phục vụ của mình như một hành trình hiệp hành đích thực của đức tin, niềm hy vọng và niềm vui được chia sẻ. Buổi cử hành này, gồm cả giờ kinh Truyền tin và cuộc di chuyển trên xe giáo hoàng của Đức Thánh Cha dọc theo Đại lộ Hòa giải (Via della Conciliazione) để chào những người hiện diện, nhấn mạnh vai trò thiết yếu của âm nhạc trong đời sống Giáo hội, như một nhịp cầu nối kết những giọng hát đa dạng trong một giai điệu duy nhất của tình yêu dành cho Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha, bắt đầu từ Thánh vịnh đáp ca — “Ta vui sướng trẩy lên đền thánh Chúa” (Tv 122) — đã mời gọi cộng đoàn cùng nhau tiến bước về với Đức Kitô, vị Vua hiền lành và khiêm nhường, Đấng mà ngai vàng là Thập giá và quyền năng được tỏ hiện nơi lòng thương xót của Thiên Chúa. “Vương quốc của Người rạng ngời trên thế giới qua thập giá, nơi Thiên Chúa trị vì từ trên cây gỗ như là Thái tử Hòa bình,” Đức Lêô XIV nhắc lại, đồng thời nhấn mạnh rằng chính tình yêu này là nguồn cảm hứng sâu xa của mọi bài thánh ca phụng vụ. Các ca đoàn, hiện diện trong Thánh lễ này với những giọng hát cất lên trong các bài thánh ca và thánh vịnh, đã được chào đón như những chứng nhân sống động của ân sủng, dâng hiến tài năng của mình “để tôn vinh Thiên Chúa và nâng cao tâm hồn của các tín hữu” (x. Công đồng Vaticanô II, Sacrosanctum Concilium, 120).

Trong phần suy niệm, Đức Thánh Cha gợi lên chiều kích phổ quát của âm nhạc, một món quà từ các nền văn minh vĩ đại nhằm diễn tả “những điều chúng ta mang trong tâm khảm sâu thẳm, mà ngôn từ không phải lúc nào cũng diễn tả được”. Trích dẫn Thánh Augustinô — “Cantare amantis est” (Bài giảng 336, 1) — ngài giải thích rằng “ca hát là thuộc về người đang yêu”, một hành động hợp nhất tâm trí, cảm xúc, thân xác và linh hồn trong việc truyền tải những chân lý lớn lao của cuộc sống. Đối với Dân Chúa, bài ca trở thành “bài ca mới” mà Đức Kitô Phục sinh dâng lên Chúa Cha, làm cho tất cả những ai đã chịu phép Rửa trở thành những chi thể trong cùng một thân thể được Thần Khí tác sinh. Như thế, các ca viên trở thành những “người hát lên ân sủng”, những người con của Giáo hội tìm thấy nơi Chúa Phục sinh nguồn mạch ngợi khen bất tận. Theo nghĩa này, nhạc phụng vụ không đơn thuần là sự trang trí, nhưng là một khí cụ quý giá để phục vụ việc ngợi khen và diễn tả niềm vui trong đời sống mới của Đức Kitô.

Đức Lêô XIV đã mở rộng hình ảnh đầy thi vị ấy sang hành trình của Giáo hội: như những lữ khách mệt mỏi, các tín hữu vừa đi vừa hát, nếm trước niềm vui của cuộc gặp gỡ cuối cùng với Thiên Chúa. “Hãy hát, nhưng hãy tiếp tục hành trình […], hãy thăng tiến trong đức hạnh” (Bài giảng 256, 3), Thánh Augustinô đã khuyên dạy, và Đức Thánh Cha áp dụng lời dạy này vào đời sống của các ca đoàn: “Là thành viên của ca đoàn nghĩa là cùng nhau tiến bước, nắm lấy tay anh chị em mình, giúp họ cùng bước đi với chúng ta và cùng họ cất lên lời ngợi khen Thiên Chúa, an ủi họ trong những khổ đau, và khích lệ họ khi sự mệt mỏi dường như đánh bại họ”. Động lực này phản ánh một Giáo hội đang lên đường, một “thực tại hiệp hành đích thực” chia sẻ ơn gọi ngợi khen trong cuộc lữ hành của tình yêu và niềm hy vọng.

Đi sâu hơn vào sự hiệp nhất, Đức Thánh Cha hướng về Thánh Inhaxiô thành Antiokia, người đã nhìn thấy trong “tình yêu giao hưởng và hòa hợp” của một ca đoàn chính là tiếng nói của Đức Kitô: “Mỗi người trong anh em cũng hãy trở thành một ca đoàn, để trong sự hòa hợp của sự thuận hòa, anh em có thể nhận lấy cung giọng của Thiên Chúa trong sự hiệp nhất” (Gửi tín hữu Êphêsô, 4). Những giọng hát khác nhau hòa quyện trong một giai điệu duy nhất tượng trưng cho Giáo hội, nơi liên kết tất cả mọi người trong tình yêu, dệt nên một “giai điệu du dương” của sự thuận hòa. Các ca đoàn phụng vụ, hoạt động chủ yếu trong cử hành Thánh Thể, đòi hỏi sự chuẩn bị, lòng trung thành và một đời sống thiêng liêng sâu sắc: “Nếu anh chị em cầu nguyện bằng tiếng hát, hãy giúp mọi người cùng cầu nguyện”. Họ cần có tính kỷ luật và tinh thần phục vụ, đặc biệt trong các phụng vụ trọng thể, nhưng luôn luôn trong sự hiệp thông với cộng đoàn, tránh sự phô trương loại trừ sự tham gia tích cực của cộng đoàn.

Như trong bất kỳ gia đình nào — và ca đoàn là một “gia đình nhỏ” được liên kết bởi tình yêu âm nhạc — những căng thẳng và mệt mỏi sẽ nảy sinh, nhưng Đức Thánh Cha xem đó là sự phản chiếu hành trình lịch sử của Giáo hội, đầy dẫy những thử thách và niềm vui đan xen. Ca hát làm cho hành trình này nhẹ nhàng hơn, đem lại sự an ủi và nhiệt huyết. “Vì thế, hãy cam kết biến các ca đoàn của anh chị em ngày càng trở thành một tuyệt phẩm của sự hòa hợp và vẻ đẹp; hãy ngày càng trở nên hình ảnh rạng rỡ của Giáo hội đang ca tụng Chúa,” Đức Lêô XIV thúc giục, đồng thời nhắc lại Huấn quyền của Công đồng để hướng dẫn sự phục vụ của họ. Ngài nói thêm, hãy tỉnh thức, để đời sống thiêng liêng của anh chị em thực sự nâng cao ân sủng phụng vụ, lôi cuốn Dân Chúa tham dự mà không rơi vào thái độ tinh hoa.

Kết thúc bài giảng, Đức Thánh Cha phó thác các ca viên cho Thánh nữ Cêcilia, vị trinh nữ và tử đạo của Roma mà “bài ca tình yêu” của ngài chính là sự hiến dâng trọn vẹn cho Đức Kitô, mang lại cho Giáo hội một chứng tá sáng ngời về đức tin và tình yêu. “Chúng ta hãy tiếp tục cất tiếng hát và một lần nữa hãy lấy lời mời gọi của thánh vịnh làm của riêng mình: ‘Ta vui sướng trẩy lên đền thánh Chúa’,” ngài kết luận, khép lại một buổi cử hành vang vọng như một bài thánh ca ngợi khen lòng thương xót của Vua Vũ trụ.

Toàn văn bài giảng:



NĂM THÁNH CÁC CA ĐOÀN
THÁNH LỄ
BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV

Quảng trường Thánh Phêrô
Lễ trọng Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ trụ
Chúa nhật, ngày 23 tháng 11 năm 2025

_______________________________________


Anh chị em thân mến,

Trong Thánh vịnh đáp ca, chúng ta đã hát: “Ta vui sướng trẩy lên đền thánh Chúa” (x. Tv 122). Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta cùng nhau tiến bước trong lời ngợi khen và niềm vui hướng về cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ trụ, vị Quân vương hiền lành và khiêm nhường, Đấng là khởi nguyên và cùng đích của mọi sự. Quyền năng của Người là tình yêu, ngai tòa của Người là Thập giá, và qua Thập giá, Vương quốc của Người rạng ngời trên thế giới. “Từ trên cây gỗ, Người trị vì” (x. Thánh thi Vexilla Regis) như là Thái tử Hòa bình và Vua Công lý, Đấng đã mạc khải cho thế giới lòng thương xót bao la của trái tim Thiên Chúa trong cuộc Khổ nạn. Tình yêu này cũng chính là nguồn cảm hứng và động lực cho tiếng hát của anh chị em.

Anh chị em ca viên và nhạc sĩ thân mến, hôm nay anh chị em cử hành năm thánh của mình và dâng lời tạ ơn Chúa vì đã ban cho anh chị em hồng ân và ân sủng để phục vụ Người bằng cách dâng hiến lời ca tiếng hát và tài năng để tôn vinh Thiên Chúa và nâng cao tâm hồn anh chị em mình (x. Hiến chế về Phụng vụ Thánh Sacrosanctum Concilium, 120). Công việc của anh chị em là lôi cuốn người khác vào việc ngợi khen Thiên Chúa và giúp họ tham dự trọn vẹn hơn vào phụng vụ qua tiếng hát. Hôm nay, anh chị em diễn tả trọn vẹn “iubilum”, là niềm hoan hỷ của mình, tuôn trào từ những con tim tràn ngập niềm vui của ân sủng.

Các nền văn minh vĩ đại đã trao tặng chúng ta món quà âm nhạc để diễn tả những gì chúng ta mang sâu trong tâm khảm, mà ngôn từ không phải lúc nào cũng diễn đạt được. Âm nhạc có thể diễn tả mọi cung bậc cảm xúc và tâm tình nảy sinh trong chúng ta từ mối tương quan sống động với thực tại. Đặc biệt, ca hát là một cách diễn tả tự nhiên và tinh tế của con người: tâm trí, cảm xúc, thân xác và linh hồn cùng hòa quyện để truyền đạt những biến cố trọng đại của cuộc sống. Như Thánh Augustinô nhắc nhở chúng ta: “Cantare amantis est” (x. Bài giảng 336,1), nghĩa là, “ca hát là thuộc về người đang yêu”. Những ai hát không chỉ diễn tả tình yêu, mà còn cả nỗi đau, sự dịu dàng và ước vọng ngự trị trong tâm hồn họ, đồng thời yêu thương những người mà họ gửi gắm bài ca (x. Enarrationes in Psalmos, 72,1).

Đối với Dân Chúa, bài ca diễn tả lời cầu khẩn và ngợi khen. Đó là “bài ca mới” mà Đức Kitô Phục sinh dâng lên Chúa Cha, trong đó tất cả những người đã chịu phép rửa tham dự như một thân thể duy nhất được tác sinh bởi sự sống mới của Thần Khí. Trong Đức Kitô, chúng ta trở thành những người hát lên ân sủng, những người con của Giáo hội tìm thấy nơi Đấng Phục sinh nguồn mạch cho lời ngợi khen của mình. Do đó, nhạc phụng vụ trở thành một khí cụ quý giá mà qua đó chúng ta thực hiện việc phục vụ ngợi khen Thiên Chúa và diễn tả niềm vui của đời sống mới trong Đức Kitô.

Thánh Augustinô một lần nữa khuyên dạy chúng ta vừa hát vừa bước đi, như những lữ khách rã rời tìm thấy trong bài ca hương vị được nếm trải trước của niềm vui mà họ sẽ trải nghiệm khi đến đích. “Hãy hát, nhưng hãy tiếp tục hành trình [...] hãy thăng tiến trong đức hạnh” (Bài giảng 256, 3). Là thành viên của ca đoàn nghĩa là cùng nhau tiến bước, nắm lấy tay anh chị em mình và giúp họ cùng bước đi với chúng ta. Nghĩa là cùng nhau hát lên lời ngợi khen Thiên Chúa, an ủi anh chị em trong cơn đau khổ, khích lệ họ khi họ dường như muốn bỏ cuộc vì mệt mỏi và động viên họ khi những khó khăn dường như lấn át họ. Tiếng hát nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta là một Giáo hội lữ hành, một thực tại hiệp hành đích thực có khả năng chia sẻ với mọi người ơn gọi ngợi khen và niềm vui trên cuộc hành hương của tình yêu và niềm hy vọng này.

Thánh Inhaxiô thành Antiokia cũng dùng những lời lẽ cảm động để diễn tả mối tương quan giữa tiếng hát của ca đoàn và sự hiệp nhất của Giáo hội: “Từ sự hiệp nhất và tình yêu hòa hợp của anh em, hãy hát lên mừng Chúa Giêsu Kitô. Và mỗi người trong anh em hãy trở thành một ca đoàn, sao cho khi đã hài hòa trong bản hòa âm của mình và khi cùng nhau cất lên bài ca của Thiên Chúa, anh em có thể cất lên một tiếng hát dâng lên Chúa Cha qua Đức Giêsu Kitô, để Người nghe thấy anh em và nhận ra anh em qua những việc lành” (Thánh Inhaxiô thành Antiokia, Ad Ephesios, IV). Thật vậy, những giọng hát đa dạng của một ca đoàn hòa quyện với nhau, viết nên một bài ca ngợi khen duy nhất, là biểu tượng sáng ngời của Giáo hội, nơi hiệp nhất mọi người trong tình yêu thành một giai điệu du dương.

Anh chị em thuộc về những ca đoàn thực thi thừa tác vụ chủ yếu trong bối cảnh phụng vụ. Thừa tác vụ của anh chị em là một thừa tác vụ đích thực đòi hỏi sự chuẩn bị, cam kết, sự hiểu biết lẫn nhau và trên hết là một đời sống thiêng liêng sâu sắc, để khi anh chị em hát, anh chị em cầu nguyện và đồng thời giúp mọi người cùng cầu nguyện. Thừa tác vụ này đòi hỏi tính kỷ luật và tinh thần phục vụ, đặc biệt khi chuẩn bị cho phụng vụ trọng thể hay một sự kiện quan trọng trong cộng đoàn của anh chị em. Ca đoàn là một gia đình nhỏ gồm những cá nhân được hiệp nhất bởi tình yêu âm nhạc và sự phục vụ mà họ dâng hiến. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng cộng đoàn mới là gia đình lớn của anh chị em. Anh chị em không đứng trên sân khấu, mà là một phần của cộng đoàn đó, nỗ lực giúp cộng đoàn lớn lên trong sự hiệp nhất bằng việc truyền cảm hứng và lôi cuốn các thành viên. Như trong mọi gia đình, những căng thẳng hay hiểu lầm nhỏ có thể nảy sinh. Những điều này là bình thường khi cùng nhau làm việc và phấn đấu đạt đến một mục tiêu. Chúng ta có thể nói ở một mức độ nào đó rằng ca đoàn là biểu tượng của Giáo hội, đang nỗ lực tiến tới mục tiêu, bước đi xuyên suốt lịch sử để ngợi khen Thiên Chúa. Ngay cả khi hành trình này đầy dẫy khó khăn và thử thách, và những khoảnh khắc vui tươi nhường chỗ cho những lúc chông gai hơn, thì việc ca hát làm cho hành trình nhẹ nhàng hơn, mang lại sự xoa dịu và an ủi.

Vì vậy, hãy nỗ lực làm cho các ca đoàn của anh chị em ngày càng hài hòa và tươi đẹp, và trở thành một hình ảnh rạng rỡ hơn của Giáo hội đang ngợi khen Chúa. Hãy học hỏi kỹ lưỡng Giáo huấn của Giáo Hội. Các văn kiện công đồng đề ra những quy tắc để anh chị em thi hành việc phục vụ cách tốt đẹp nhất. Trên hết, hãy nhiệt tâm thúc đẩy sự tham gia của Dân Chúa, không nhượng bộ trước cám dỗ muốn phô trương là điều ngăn cản toàn thể cộng đoàn phụng vụ tham gia tích cực vào lời ca tiếng hát. Trong việc này, hãy là một dấu chỉ hùng hồn cho lời cầu nguyện của Giáo hội, diễn tả tình yêu của Giáo hội dành cho Thiên Chúa qua vẻ đẹp của âm nhạc. Hãy chăm lo để đời sống thiêng liêng của anh chị em luôn xứng hợp với việc phục vụ mà anh chị em thực hiện, để thừa tác vụ của anh chị em có thể diễn tả ân sủng của phụng vụ một cách đích thực.

Tôi phó thác tất cả anh chị em dưới sự che chở của Thánh Cêcilia, trinh nữ và tử đạo đã cất lên bài ca tình yêu đẹp nhất qua cuộc đời của ngài tại Rôma này, hiến dâng trọn vẹn cho Đức Kitô, và dâng cho Giáo hội một tấm gương sáng ngời về đức tin và tình yêu. Chúng ta hãy tiếp tục hát lên và một lần nữa hãy lấy lời mời gọi của thánh vịnh làm của riêng mình: “Ta vui sướng trẩy lên đền thánh Chúa.”


[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 24/11/2025]


Tiếp kiến các thành viên Hội đồng Đại diện Caritas Quốc tế, 21.11.2025

Tiếp kiến các thành viên Hội đồng Đại diện Caritas Quốc tế, 21.11.2025

Tiếp kiến các thành viên Hội đồng Đại diện Caritas Quốc tế, 21.11.2025

********

Sáng nay, tại Điện Tông tòa Vatican, Đức Thánh Cha Lêô XIV tiếp kiến các thành viên của Hội đồng Đại diện Caritas Quốc tế và gửi đến họ lời chào thăm sau đây:

______________________________


Lời chào của Đức Thánh Cha:


Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.

Bình an ở cùng anh chị em!

Thưa các Đức Hồng y,

Anh chị em trong Chúa Kitô thân mến,

Thật là một niềm vui đối với tôi khi được chào đón anh chị em vào sáng nay, các thành viên của Hội đồng Đại diện Caritas Quốc tế, và đặc biệt là Đức Hồng y Kikuchi, Tổng Giám mục Tokyo, Chủ tịch của Caritas. Chào mừng anh chị em! Tôi cảm ơn vì chuyến viếng thăm của anh chị em trong Năm Thánh Hy vọng này, và vì sự phục vụ bền bỉ mà tổ chức của anh chị em vẫn tiếp tục cống hiến cho toàn thể Giáo hội, và cho mọi người trên khắp thế giới.

Kể từ khi thành lập, Caritas Quốc tế đã là hiện thân cho lời loan báo của Giáo hội rằng “sự ưu ái của Đức Kitô là dành cho người nghèo, những người bé mọn, những người bị bỏ rơi và bị loại trừ” (Đức Phanxicô, Sứ điệp gửi các tham dự viên Đại Hội đồng Caritas Quốc tế, 11 tháng 5 năm 2023). Quả thực, tầm nhìn này có thể được nhìn thấy nơi chính Bí tích Thánh Thể, nơi Chúa đã “yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13:1). Trong Tông huấn Dilexi Te, tôi đã suy tư về chính mầu nhiệm ấy: rằng tình yêu chúng ta lãnh nhận từ Chúa Kitô không bao giờ là một kho tàng riêng tư, nhưng luôn là một sứ mạng được trao phó vào tay chúng ta. Tình yêu thúc đẩy chúng ta lên đường; tình yêu biến chúng ta thành những người phục vụ; tình yêu mở mắt chúng ta trước những vết thương của tha nhân.

Caritas Quốc tế từ lâu đã là một dấu chỉ sáng ngời cho tình mẫu tử của Giáo hội, và tôi được khích lệ khi biết rằng anh chị em luôn sẵn sàng bước đi cùng Đấng Kế vị Thánh Phêrô trong việc phục vụ phẩm giá của mỗi con người. Sứ mạng của anh chị em vang vọng lại tầm nhìn mà tôi đã chia sẻ trong bài diễn văn đầu tiên trước Ngoại giao đoàn, trong đó tôi đã nói về ba trụ cột nâng đỡ công việc của Giáo hội trong thế giới: hòa bình, công lý và sự thật. Các trụ cột đó không phải là những lý tưởng trừu tượng. Chúng là công việc hằng ngày của anh chị em, công việc hằng ngày của Caritas. Ở bất cứ nơi nào anh chị em đồng hành cùng một gia đình phải di tản, hoặc bảo vệ quyền của người nghèo, hoặc trao một trái tim biết lắng nghe cho những người bị lãng quên, thì chứng tá của Giáo hội lại càng trở nên xác thực hơn. Trong tinh thần này, tôi khuyến khích anh chị em hãy tiếp tục đồng hành với các Giáo hội địa phương, tăng cường việc đào tạo các lãnh đạo giáo dân, và bảo vệ sự hiệp nhất trong tổ chức đa dạng của anh chị em. Sứ mạng của Giáo hội chỉ được triển nở khi chúng ta cùng bước đi như những người bạn đồng hành trên một con đường, cho phép Chúa Thánh Thần định hình các công việc bác ái của chúng ta.

Với những suy tư ngắn gọn này, tôi phó thác công việc của anh chị em cho Đức Maria, Mẹ của người nghèo. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, ước gì anh chị em luôn là những lữ khách của niềm hy vọng và những người kiến tạo hòa bình. Với lòng chân thành, tôi cảm ơn anh chị em, cảm ơn từng người trong anh chị em, và rất nhiều người mà anh chị em đại diện, những người đang cộng tác cùng anh chị em. Tôi cảm ơn anh chị em, và xin Chúa ban cho anh chị em những ơn can đảm, bền chí và niềm vui. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em.

Và giờ đây, chúng ta cùng cầu nguyện: Lạy Cha chúng con…


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 22/11/2025]


Thứ Ba, 25 tháng 11, 2025

Đại sứ Li-băng tại Vatican nêu rõ những thách đố của chuyến tông du

Đại sứ Li-băng tại Vatican nêu rõ những thách đố của chuyến tông du

Đại sứ Li-băng tại Vatican nêu rõ những thách đố của chuyến tông du

Antoine Mekary | ALETEIA


I.Media

22/11/25


Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Lêô XIV tới Li-băng được xem là một cử chỉ ủng hộ mạnh mẽ đối với quốc gia này, đang phải đấu tranh để vượt qua nhiều cuộc khủng hoảng nhưng vẫn mang trong mình một sứ mạng toàn cầu.

Sau Thổ Nhĩ Kỳ, Đức Thánh Cha Lêô XIV sẽ đặt chân lên miền đất Li-băng vào ngày 30 tháng 11 trong chuyến tông du sẽ kết thúc vào ngày 2 tháng 12 năm 2025. Vài ngày trước chuyến đi lịch sử này, ông Fadi Assaf, tân đại sứ của Li-băng tại Tòa Thánh, đã chia sẻ những phân tích của ông về hành trình này.

Theo quan điểm của ông, chuyến thăm nhằm ủng hộ những nỗ lực của chính quyền hiện tại trong việc khôi phục chủ quyền của Li-băng.

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha tới Thổ Nhĩ Kỳ vốn đã được dự kiến trong năm nay để kỷ niệm Công đồng Nicaea. Nhưng vì sao Đức Thánh Cha Lêô XIV lại chọn viếng thăm Li-băng, và thực hiện ngay trong năm đầu tiên của triều đại giáo hoàng của ngài?

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng từng hứa sẽ thăm Li-băng, nhưng chuyến đi đã không thể diễn ra. Đối với người dân Li-băng, quyết định này của Đức Thánh Cha Lêô XIV ngay trong những tháng đầu tiên triều đại của ngài là một quyết định rất mạnh mẽ, nhất là khi nó được thúc đẩy bởi những động lực tương tự như những gì đã thôi thúc Đức Thánh Cha Phanxicô quyết định thăm Li-băng trước đây.

Thật vậy, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã chọn đến thăm Li-băng vào thời điểm đất nước đang phải đối mặt với những biến động của các cuộc biến chuyển địa chính trị lớn quét qua toàn vùng Cận Đông, và cuộc biến chuyển đã gia tăng tốc độ trong hai năm qua. Việc Li-băng chịu ảnh hưởng nặng nề trước các rủi ro địa chính trị hiện tại đòi hỏi sự huy động của các đồng minh trong khu vực và quốc tế của nước này.

Nếu chỉ dựa vào sức mình, Li-băng sẽ gặp vô vàn khó khăn để vượt qua các cuộc khủng hoảng đa diện, sâu sắc và phức tạp đang bủa vây. Đất nước đang rất cần đến vòng tay của các bạn hữu trong khu vực và quốc tế. Là một người bạn và là người ủng hộ lịch sử kiên định của Li-băng, Tòa Thánh hôm nay thấy mình ở tuyến đầu của mặt trận huy động này nhằm ủng hộ sự ổn định tại Đất nước của những cây Tuyết tùng.

Thúc đẩy ổn định và hòa bình

Sự hiện diện của Đức Giáo hoàng tại Li-băng sẽ mang lại ảnh hưởng gì?

Sức mạnh của Tòa Thánh nằm ở trọng lượng luân lý, tầm ảnh hưởng trên trường quốc tế, và khả năng huy động các bạn bè vì lợi ích của Li-băng.

Ổn định Li-băng, cung cấp sự hỗ trợ và bảo vệ, đồng thời dẫn dắt đất nước đi theo con đường hòa bình tóm tắt các thách đố mà bạn bè của Li-băng, trong đó có Tòa Thánh, đã tự đặt ra cho chính mình.

Tất cả những điều này cần phải bao hàm việc vô hiệu hóa những ảnh hưởng độc hại đến từ bên ngoài biên giới, và tái thiết một nhà nước có khả năng hoàn thành trọn vẹn sứ mạng của mình: một nhà nước kiểm soát toàn bộ lãnh thổ và biên giới, nắm giữ sự độc quyền về vũ khí, cam kết thực hiện một chương trình cải cách sâu rộng và nghiêm túc, đồng thời nỗ lực phát triển một tầm nhìn mới cho vai trò khu vực, tầm ảnh hưởng văn hóa, kinh tế và vị thế của mình trên thế giới.

Trong bối cảnh này, chắc chắn là đầy bất ổn nhưng cũng đầy hy vọng về tương lai, người dân Li-băng nhìn thấy nơi Đức Thánh Cha, một con người của hòa bình và đối thoại, như là tác nhân xúc tác cho những nỗ lực này.

Để vượt qua khủng hoảng thành công, Li-băng cần khôi phục nền hòa bình nội bộ và từ đó gìn giữ những mối quan hệ hòa hảo giữa các thành phần khác nhau trong xã hội. Bằng việc đến với đất nước chúng tôi, Đức Thánh Cha đang nhắc nhở người dân Li-băng về việc cần phải thể hiện những gì liên kết họ và từ bỏ những điều chia rẽ họ. Chính ý tưởng về sự hài hòa giữa các cộng đồng là điều mà Đức Thánh Cha đến để ủng hộ.

Đức Lêô XIV đến không chỉ để bảo vệ cộng đồng Kitô giáo, vốn đặc biệt nhạy cảm với tình trạng bất ổn kéo dài, mà còn để cứu vớt một mô hình chung sống, dù không hoàn hảo như lịch sử gần đây cho thấy, nhưng vẫn được xem là tối ưu trong bối cảnh hiện tại.

Một đất nước giữa cơn khủng hoảng

Li-băng đang quằn quại trong một cuộc khủng hoảng kinh tế vô cùng nghiêm trọng. Giới tinh hoa và các thể chế của nước này thường bị chỉ trích vì thiếu khả năng trong việc cải cách đất nước. Đức Thánh Cha sẽ nhìn thấy Li-băng trong tình trạng như thế nào?

Đức Lêô XIV sẽ chứng kiến một đất nước đã kiệt quệ về kinh tế, một quốc gia đã phải gánh chịu cuộc khủng hoảng tài chính và ngân hàng chưa từng có, một đất nước đã trải qua thảm kịch vụ nổ cảng Beirut, đã chịu đựng chiến tranh, và dòng người tị nạn Syria ồ ạt đổ về... tại Li-băng, tất cả các vấn đề như đang chồng chất lên nhau.

Đối diện với những cuộc khủng hoảng đa tầng này, tổng thống và chính phủ hiện tại đã quyết định có một cái nhìn mới về một số vấn đề nhằm khôi phục chủ quyền của Li-băng. Để khôi phục một nhà nước xứng đáng với tên gọi của nó, vực dậy nền kinh tế và tầm ảnh hưởng văn hóa, chúng tôi phải phục hồi sinh lực và thẩm quyền của Li-băng.

Điều này đặc biệt liên quan đến việc giải giáp các lực lượng dân quân để bảo đảm sự độc quyền về an ninh và quốc phòng. Tôi tin rằng Đức Thánh Cha Lêô XIV nắm rõ các bước đang được thực hiện theo hướng này ở cấp cao nhất.

Ủng hộ các nỗ lực của chính phủ hiện tại

Liệu chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Lêô XIV cũng là một dấu hiệu ủng hộ Tổng thống Joseph Aoun, người vừa đắc cử vào tháng Giêng vừa qua?

Tổng thống Joseph Aoun đã có cơ hội viếng thăm Vatican nhiều lần kể từ khi đắc cử. Cùng với các nhà lãnh đạo giáo hội tại Li-băng, ông đã mời Đức Thánh Cha đến thăm Li-băng. Qua việc nhận lời mời cách nhanh chóng, Tòa Thánh đã gửi đi thông điệp rằng họ ủng hộ các định hướng chính sách lớn hiện nay.

Vatican hoan nghênh mong muốn cải cách kinh tế, cuộc chiến chống tham nhũng, sự tôn trọng các quyền tự do cá nhân và tôn giáo, những nỗ lực nhằm đạt được sự cân bằng giữa các cộng đồng, cũng như mong muốn trao cho nhà nước sự độc quyền về vũ khí và an ninh của quốc gia.

Bạn bè của Li-băng, trong đó có Tòa Thánh, nhất trí ủng hộ những nỗ lực phối hợp này giúp đất nước thoát khỏi khủng hoảng thành công.

Liệu mong muốn của chính quyền tuyên bố về việc giành lại quyền kiểm soát vũ khí có ảnh hưởng đến sự an toàn của chuyến đi không?

Chúng tôi không có lo ngại gì về phương diện đó.

Những điểm dừng chân chính trong hành trình

Đức Giáo hoàng Lêô sẽ đến thăm hiện trường vụ nổ tại cảng Beirut. Theo ông, đây có phải là một điểm dừng chân cần thiết? Và ngài có thể gửi đi thông điệp gì từ nơi là hiện thân cho cuộc khủng hoảng của Li-băng?

Đức Thánh Cha chắc chắn sẽ đến thăm hiện trường vụ nổ để bày tỏ lòng tôn kính và cầu nguyện cho các nạn nhân, và ngài sẽ gặp gỡ gia đình của họ. Sự hiện diện của ngài tại nơi này, ngay cả khi ngài không có bài phát biểu công khai, sẽ là một thông điệp của tình liên đới đối với một cộng đồng dân cư bị tàn phá bởi thảm họa này. Chuyến thăm này cũng có thể được xem như một lời kêu gọi mạnh mẽ cho công lý và cần phải thực thi công lý.

Trong số các sự kiện được lên kế hoạch trong ba ngày tại Li-băng, ông nghĩ sự kiện nào sẽ đặc biệt quan trọng?

Cuộc gặp gỡ của Đức Thánh Cha Lêô XIV với giới trẻ Li-băng tại Tòa Thượng phụ Maronite ở Bkerké sẽ mang ý nghĩa vô cùng mạnh mẽ. Giới trẻ là lời hứa cho một tương lai tốt đẹp hơn của Li-băng; họ là sức sống, là sức mạnh của đất nước. Đức Thánh Cha sẽ gặp gỡ những người trẻ đang đau khổ nhưng quyết tâm ở lại và tái thiết quê hương.

Đức Thánh Cha cũng sẽ đến viếng mộ Thánh Charbel tại Tu viện Thánh Maroun ở Annaya. Ngài là một vị thánh rất quan trọng tại Li-băng, nhưng ảnh hưởng của ngài còn vượt xa hơn thế. Vì thế, chuyến thăm của Đức Giáo hoàng cũng sẽ là một cử chỉ hướng về cộng đồng Li-băng hải ngoại, vốn rất gắn bó với Thánh Charbel.

Cuối cùng, đó là chiều kích liên tôn của chuyến đi này. Một cuộc gặp gỡ đã được lên chương trình tại Beirut với đại diện của nhiều tôn giáo và giáo phái khác nhau. Điều này quan trọng bởi nó làm nổi bật thực tế rằng Li-băng là nơi của sự chung sống liên cộng đồng, và bản thân điều đó là một kho tàng của khu vực cần được gìn giữ bằng mọi giá.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 23/11/2025]