Thứ Ba, 12 tháng 9, 2017

Đức Tổng Giám mục Follo: Mẹ Teresa một năm trước

Đức Tổng Giám mục Follo: Mẹ Teresa một năm trước

“Con muốn dâng mọi sự cho Người kể cả sự sống của con.”
5 tháng Chín, 2017
Đức Tổng Giám mục Follo: Mẹ Teresa một năm trước
Đức Tổng Giám mục Francesco Follo, Ảnh của Phái bộ Tòa Thánh, UNESCO
Đức Thánh Cha Phanxico nhắc đến một một lời khấn trọng vô cùng đặc biệt của Mẹ Teresa trong ngày công bố Mẹ là Thánh một năm trước: “Trong suốt cuộc đời, Mẹ là một người phân phát quảng đại lòng thương xót của Chúa, Mẹ buộc mình phải luôn sẵn sàng đón nhận và bảo vệ sự sống con người, sự sống trong bào thai người mẹ, cũng như những cuộc đời bị bỏ rơi và bị chối bỏ.
“Mẹ dành cuộc đời cho việc bảo vệ sự sống, cho việc liên tục tuyên bố rằng một sự sống ‘chưa được sinh ra là mong manh nhất, là nhỏ bé nhất, là đáng thương nhất.’ Mẹ cúi mình xuống với những người hoàn toàn tuyệt vọng, bị bỏ chết bên vệ đường, nhận ra trong họ phẩm giá mà Thiên Chúa đã ban cho họ.
“Mẹ đã làm cho tiếng nói của mẹ được những người quyền lực trên thế giới lắng nghe, để họ nhận ra được những lỗi lầm của họ trước các tội ác – trước các tội ác – trước sự cùng khổ mà chính họ tạo ra.
“Lòng thương xót đối với Mẹ là ‘muối’ để ướp hương vị cho mỗi công cuộc của Mẹ, và là ‘ánh sáng’ soi sáng bóng đêm cho những người không còn nước mắt để khóc trên sự cùng khổ và đau đớn của họ.
“Sứ mạng của Mẹ trong những vùng ngoại vi của thành phố và trong những vùng ngoại vi sống lay lất vẫn còn tồn tại trong thời đại của chúng ta, như là một chứng tá hùng hồn cho sự gần gũi của Chúa đối với những người nghèo nhất trong số người nghèo.”
Tiếp theo với Đức Thánh Cha, cho phép tôi tiết lộ hai “bí mật” trong tim của Mẹ, nó đánh dấu và khơi nguồn cảm hứng cho mối quan hệ của Mẹ với Chúa Giê-su. Bí mật thứ nhất liên quan đến một lời khấn trọng vô cùng đặc biệt của riêng Mẹ, và Mẹ đã thực hiện năm 1942. Bí mật thứ hai được liên kết với nguồn cảm hứng của Mẹ Teresa phục vụ người nghèo nhất giữa những người nghèo. Hai hiện tượng này cũng đủ dẫn đưa chúng ta tri ân sâu sắc hơn sự thánh thiện của mẹ cũng như mẫu gương và thông điệp của Mẹ vô cùng phù hợp cho thời đại của chúng ta, đặc biệt nếu chúng đặt mình trong mối tương quan với nhau.
1.  Lời khấn trọng năm 1942 – “Một lời khấn rất đẹp” dành cho Chúa Giê-su
Mẹ Teresa trên tất cả là một người phụ nữ yêu Chúa. Dường như Mẹ đã bước vào tình yêu với Người từ rất sớm và đã phát triển tình yêu đó mà không bị những cản trở nào nghiêm trọng. Nền học vấn của Mẹ được đánh dấu bằng đức tin Công giáo và một đời sống tâm linh rất nghiêm túc. Trong một số những thư riêng, Mẹ tiết lộ rằng Giê-su là người đầu tiên và người duy nhất làm con tim Mẹ say đắm. “Từ thuở nhỏ, Thánh Tâm Giê-su là tình yêu đầu đời của tôi.” Trong mối thân tình này với Chúa Giê-su, Mẹ Teresa đón nhận một đặc ân ngay lúc Mẹ Rước Lễ Lần đầu: “Từ lúc lên 5 tuổi rưỡi, khi tôi được Rước Ngài lần đầu tiên, tình yêu của linh hồn tràn vào tôi. Nó tăng lên theo năm tháng.”
Quả thật, tình yêu của Mẹ Teresa dành cho Chúa Giê-su và cho tha nhân quá lớn đến mức lên 18 tuổi, Mẹ rời bỏ gia đình và quê hương để trả lời cho tiếng gọi của Chúa Giê-su bước vào một đời sống thừa sai ở Ấn độ làm một Nữ tu dòng Loreto. Tám năm sau, Mẹ khấn trọng với Đức Ki-tô sống đời Tu trì. Sáu tháng sau lời khấn trọng, Mẹ hiểu thấu được nỗi sợ hãi trộn lẫn với sự kính trọng khi Mẹ nghĩ đến niềm vui dạt dào mà biến cố đã đưa đến cho Mẹ. “Nếu cha biết con được hạnh phúc đến ngần nào,” Mẹ viết cho Cha Linh hướng của Mẹ ở Skopje, Cha Jambrekovic, S.J. “con đã có thể để cho ngọn lửa thiêu đốt con … con muốn hoàn toàn thuộc về Chúa Giê-su … Con muốn dâng mọi sự cho Người kể cả sự sống của con.”
Tháng Tư năm 1942, Mẹ có lời khấn đặc biệt: tặng cho Chúa Giê-su bất kỳ điều gì Ngài muốn, không từ chối bất cứ điều gì.
Do đó, nếu chúng ta muốn noi theo gương của Mẹ Teresa, chúng ta phải “làm điều gì đó thật đẹp cho Chúa Giê-su,” sống yêu thương trong chân lý và trong niềm vui.
2.  “Nguồn cảm hứng” của Mẹ Teresa
Sau khi Mẹ khấn tạm lần đầu vào tháng Năm, 1931, Mẹ Teresa được gửi đến cộng đoàn Nữ tu Loreto ở Calcutta, tại đây Mẹ dạy học trong trường Trung học Thánh Mary dành cho thiếu nữ Bengali. Ngôi trường bên cạnh Dòng và trường nhận trẻ mồ côi và trẻ em nghèo cũng như học sinh bán trú và nội trú. Cùng với những trách nhiệm được giao, người Nữ tu trẻ nhiệt thành cũng làm việc trong một trường Loreto khác, trường Trung học Thánh Teresa của Bengali, nằm trên đường Lower Circular. Việc đi lại hàng ngày qua thành phố cho phép Mẹ nhìn thấy sự thiếu thốn và đau khổ của người nghèo. Tháng Năm, 1937, sau khi Mẹ khấn trọng là Nữ tu của Loreto, Mẹ vẫn tiếp tục làm việc tại trường Thánh Mary, dạy giáo lý và địa lý. Năm 1944, Mẹ trở thành hiệu trưởng của trường.
Trong lớp, Mẹ Teresa không chỉ hiện diện và làm công việc. Mẹ mong muốn giúp học sinh chia sẻ cái nhìn về đời sống siêu nhiên và dẫn đưa các em đi vào một đức tin sâu sắc hơn. Mẹ cũng có dịp được phục vụ người nghèo trong các phòng y tế do các Nữ tu Loreto điều hành. Những lần gặp gỡ này tạo một ảnh hưởng lớn đối với Mẹ. Đó là môi trường quan phòng mà Chúa muốn chuẩn bị cho Mẹ trong sứ vụ tương lai, cho dù lúc đó Mẹ không ý thức được điều đó.
Trong suốt những năm ở Loreto, Mẹ Teresa nổi bật với lòng bác ái của Mẹ, lòng quảng đại, sự can đảm, khả năng làm những công việc vất vả, một năng khiếu tự nhiên trong việc tổ chức và một tinh thần vui tươi. Mẹ là một Tu sĩ cầu nguyện rất nhiều, tin tưởng và nhiệt thành. Mặc dù không ai biết đến lời khấn riêng của mẹ năm 1942, nhưng tình yêu thương và lòng quảng đại của Mẹ là bằng chứng tất cả. Mẹ rất được các Nữ tu trong Cộng đoàn cũng như các học sinh và mọi người trong trường Thánh Mary yêu mến và kính phục.
Mẹ Teresa rời Dòng Loreto ở Entaly, Calcutta, được phép nghỉ và Tĩnh tâm 8 ngày ở Darjeeling vào tối thứ Hai ngày 9 tháng Chín, 1946. Hôm sau, khi đang trên xe lửa, Mẹ Teresa nghe thấy tiếng Chúa Giê-su lần đầu tiên, dưới hình thức của tiếng gọi nội tâm và thị kiến tâm hồn, Chúa Giê-su yêu cầu Mẹ thành lập một Cộng đoàn Tu trì phục vụ người nghèo nhất giữa những người nghèo, và Mẹ Teresa trình bày rõ ràng dằng, “để làm dịu cơn khát tình yêu và các linh hồn.” Trải nghiệm này trên xe lửa là bước ngoặt trong đời Mẹ Teresa. Mẹ luôn luôn nói về nó đến mức gọi đó là một “tiếng gọi trong một tiếng gọi.” Ngày 10 tháng Chín trở thành ngày lễ “Ngày Khơi nguồn Cảm hứng” trong Dòng Thừa sai Bác ái.
Cuối cùng, theo tôi, còn vấn đề thứ ba cần phải nhấn mạnh, nó không phải là điều bí mật, nhưng không được nhiều người biết đến. Mẹ Teresa luôn vui vẻ.
Mẹ nói: “Cách tốt nhất để thể hiện lòng biết ơn Thiên Chúa và con người, là đón nhận mọi điều với niềm vui.”
“Niềm vui là một lời cầu nguyện, cầu xin để nó trở thành lòng quảng đại, lòng vị tha, tình bạn của chúng ta với Đức Ki-tô. Niềm vui là tình yêu: một tâm hồn hân hoan là kết quả bình thường của một tâm hồn rực cháy vì yêu; vì vậy điều cần thiết là phải có khả năng thể hiện niềm vui. Niềm vui là một sự liên kết của tình yêu. Niềm vui là sức mạnh của chúng ta” (số. 8, 10), Mẹ Teresa thích nói chuyện.
Khi lần đầu tiên tôi khám phá ra rằng tâm hồn của Mẹ Teresa không chỉ là tâm hồn tín thác yêu thương và hoàn toàn trút bỏ mình, nhưng còn là tâm hồn mừng vui, tôi đã rất ngạc nhiên. Đúng, tôi ngạc nhiên vì vui mừng!
Từ đó, mỗi khi gặp nữ thánh này và những Nữ tu của Mẹ, tôi luôn nhìn thấy họ cười, niềm vui của họ được chia sẻ khi trao lương thực cho người nghèo, nhưng trên hết là trao hiến chính bản thân trong niềm vui và lòng nhân hậu lên Thiên Chúa và người nghèo. Tôi cũng hiểu được hơn rằng Tin mừng là tin vui được loan truyền bằng và với niềm vui.
Một trong những câu nói của Mẹ Teresa làm tôi xúc động nhất là: “Đừng để cho bất kỳ nỗi buồn nào trở nên mạnh quá mức đến nỗi bạn quên rằng Đức Ki-tô đã sống lại.”
Sự nên thánh là nhưng không và hồng ân.

[Nguồn: zenit]

[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 06/09/2017]


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét