Thứ Ba, 19 tháng 7, 2016

18 thời khắc đặc biệt trong đời sống thường nhật khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa

18 thời khắc đặc biệt trong đời sống thường nhật khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa

"Thiên Chúa hoạt động trong sự khiêm nhường và im lặng; "trình diễn" không phải là phong cách của Người! - Đức Thánh Cha Phanxico
16/03/2015

Tôi thường xuyên nghe nói rằng, “Chúa đã bỏ rơi tôi, Chúa không lắng nghe tôi,” hay “Tôi chẳng biết Chúa ở đâu hết.” Cuộc sống chúng ta thường quá vội vã, bị cuốn vào những thói quen và hàng ngàn các hoạt động do thế giới ngày nay đòi hỏi. Những hoạt động như vậy có thể làm chúng ta đánh mất ý nghĩa cuộc sống và cuối cùng cảm thấy mất phương hướng, cô đơn.
Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa của chúng ta, luôn hiện diện, cho dù chúng ta không cảm nhận thấy Người. Nếu chúng ta chú ý thêm một chú, và chúng ta dừng lại để suy nghĩ một lát, chúng ta có thể nhận ra rằng, quả thực, trong một bước chúng ta đi, trong mọi hoàn cảnh chúng ta sống, tốt hay xấu, đều có Thiên Chúa. Người hiện diện, mong mỏi rằng chúng ta nghe thấy tiếng Người và mừng vui khi chúng ta tìm thấy Người. Tôi nghĩ rất nhiều chúng ta có thể tin tưởng hơi sai lầm rằng chúng ta chỉ có thể tìm thấy Thiên Chúa trong những thời khắc vô cùng đặc biệt; những thời khắc chìm sâu vào cầu nguyện hay những phép lạ siêu nhiên. Và đúng là Thiên Chúa trong những thời khắc đó, nhưng Người cũng ở bên cạnh chúng ta trong mỗi bước chúng ta đi, chờ đợi chúng ta mở cửa và lắng nghe giọng nói của Người, sự chăm sóc của Người, lời dạy bảo của người và thậm chí cả sự hài hước của Người nữa. Ở đây chúng tôi xin trình bày 18 tình huống trong cuộc sống hàng ngày qua đó Thiên Chúa thể hiện sự hiện diện của Người với chúng ta.
Về phần thần, thầy sẽ ở lại cùng anh em cho đến ngày tận thế. (Mt 28:20)


1.  Khi tôi tỉnh giấc và ý nghĩ đầu tiên là về Thiên Chúa.
When I wake up and my first thought is for God.
Tôi mở mắt và nhận ra rằng cuộc sống của tôi là một ân sủng của tình yêu không bờ bến. Bất chấp những giây phút khó khăn.
2.  Khi tôi có thể chia sẻ những ân sủng.
When I can share my gifts.
Có những lúc tôi nhận ra những kỹ năng và ân sủng là dành cho riêng tôi, chẳng hạn có thể cho những lời khuyên tốt, sửa chữa cái gì đó, vẽ tranh cho con cái, ca hát, ngay cả những nụ cười … ân sủng làm cho tôi trở nên nhân vị duy nhất và không thể thay thế được, đúng như ý định của Thiên Chúa dành cho tôi.
3.  Khi sự tức giận chiếm trọn tôi, nhưng đột nhiên tôi có thể dừng lại và đánh giá phản ứng của tôi.
When anger overcomes me, but then suddenly I'm able to pause and assess my reaction.
Sự hiện hữu của suy tư này trong cuộc sống của tôi là một dấu chỉ cho biết có điều gì đó đánh động tôi. Rằng tôi không đơn thuần bốc đồng. Sự ý thức tiết lộ sự hiện diện của Chúa trong tôi.
4.  Khi tôi cảm thấy cô đơn, nhưng rồi một hình ảnh an ủi tôi (trước khi tôi rơi vào sự tuyệt vọng).
When I feel lonely, but then an image comforts me (before I slip into despair).
Rất nhiều lần trong những giây phút cô đơn và tuyệt vọng, quay sang thập giá của Đức Ki-tô làm cho những đau khổ và phiền muộn của tôi có ý nghĩa. Người đã gánh lấy chúng trước khi tôi chịu đựng chúng.
6.  Khi tôi có những giây phút cô độc và cầu nguyện.
When I have moments of solitude and prayer.
Ngày này sang ngày  khác có thể làm tôi không còn giờ để cầu nguyện. Nhưng những thời khắc đó, những giây phút đó, khi tôi có thể chọn để có thời gian cầu nguyện vào cuối ngày là sự an ủi cho tôi. Những giây phút nghỉ ngơi trong ngày bên Người, một giây phút dâng lời tạ ơn, tìm sự an ủi.
6.  Khi nỗi đau của người khác trở thành của tôi.
When the pain of others becomes my pain.
Nhìn thấy nỗi đau của những người khác. Những người tôi sẽ không bao giờ gặp, hay ở những nơi tôi có thể không bao giờ đến và bất chợt tôi cảm thấy dường như những nỗi đau đó là của tôi. Đó là dấu chỉ của Chúa trong tôi. “Ngươi hãy yêu anh em như chính bản thân mình.” (Mc 12)
7.  Khi tôi nhìn thấy những kỳ quan của công trình tạo dựng của Người.
When I see the wonders of his creation.
Chiêm ngắm những kỳ quan của tạo hóa làm tôi trở thành một chứng tá của trật tự đó. Tôi được nhắc nhở rằng thế giới tiếp tục theo một trật tự và không phải là tùy tiện.
8.  Khi tôi chứng kiến tình yêu các con tôi dành cho nhau.
When I witness the love that my children have for each other.
Một cái hôn ngây thơ của những đứa trẻ cho tôi thấy dấu chỉ của Thiên Chúa. Hãy dạy chúng biết yêu từ tuổi thơ.
9.  Khi tôi nhìn thấy niềm vui của những người đã dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa.
When I see the joy of people who have dedicated their lives to God.
Tôi luôn luôn bị sửng sốt trước niềm vui của những người bạn của tôi trong đời sống tu trì. Khi chúng tôi nói chuyện, khi tôi nhìn thấy cách họ chào đón nhau. Cuộc sống của họ lóe lên một niềm vui đến từ một điều gì đó lớn lao hơn, một cộng đoàn bền vững, một sự hiệp nhất đặc biệt với Chúa.
10.  Những khuôn mặt bé nhỏ đầy sự nuối tiếc.
Their little faces full of regret.
Khi những đứa con của tôi chơi những trò tinh nghịch rồi chợt hiểu ra là chúng đã có hành động xấu. Tiếc nuối: quan trọng phải bắt đầu lại. Thiên Chúa ở đó để dạy tôi cách làm một người mẹ và hướng dẫn chúng có những hành vi tốt.
11.  Khi tôi giúp người khác.
When I help others.
Tình yêu là phải có cho đi và phục vụ. Bất cứ khi nào tôi giúp người khác, bạn bè hay người lạ, tim tôi rạo rực niềm vui và tôi thấy ý nghĩa của điều răn mới Chúa Giê-su để lại cho chúng ta: yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu anh em như chính mình.
12.  Khi tôi nhớ về những người thân yêu không còn nữa.
When I remember my loved ones that are not longer here.
Nhớ về những người tôi yêu mà không còn nữa, như ông bà, chú bác, và bạn bè. Thiên Chúa luôn đến trong ý nghĩ của tôi với sự an ủi của Người và lời hứa rằng chúng tôi sẽ gặp lại nhau trong cuộc sống vĩnh hằng.
13.  Khi mừng hồng ân có được những người bạn tốt.
When celebrating the gift of having good friends.
Ân sủng tình bạn cho phép tôi chia sẽ với những người khác kinh nghiệm của tôi, những kỷ niệm, những ngày tốt đẹp và những ngày buồn. Tình bạn là một hồng ân tuyệt vời. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình." (Gioan 15:13)
14.  Khi tôi ngạc nhiên vì sức mạnh sáng tạo lớn lao của con người.
When I am surprised by the immense creative powers of man.
Chứng kiến tất cả những thứ nhân loại đã có thể sáng tạo ra, những đỉnh cao của sức tưởng tượng chúng ta đã đạt tới, tiết lộ cho tôi thấy Đấng Tạo hóa đã thúc đẩy nhờ đó mà chúng ta đạt tới.
15.  Khi những đám mây nhắc tôi nhớ đến thiên đàng … Các bạn cũng nghĩ về điều đó chứ?
When the clouds remind me of heaven... Haven´t you thought about it, too?
Ngắm nhìn bầu trời và cảm nhận nỗi nhớ nhung vô biên, niềm vui này nhắc tôi nhớ rằng tôi được gọi để sống một đời sống bất diệt.
16.  Khi tôi tạ ơn vì có thể cảm nhận tình yêu trong tôi.
When I am thankful to be able to feel love in my heart.
Yêu chân thành làm tim tôi ngập tràn niềm vui và cho phép tôi cho đi bản thân. Ước muốn cho đi mọi thứ vì yêu. Yêu theo cách Chúa yêu tôi.
17.  Trong những giây phút khi tôi nhận ra tim tôi đau nhói vì tính phù du của cuộc đời.
In those moments when I realize my heart aches over the fleetingness of life.
Nhớ rằng cuộc đời này chỉ là tạm thời nhưng đích đến là cuộc sống vĩnh hằng. Đây là một ý thức tất cả chúng ta đều có. Nó là đánh dấu của Thiên Chúa chuển bị chúng ta vào cuộc sống muôn đời.
18.  Khi bất chợt tôi có ý tưởng nhưng tôi không biết chúng từ đâu đến.
When suddenly I have thoughts but I don't know where they came from.
Rất nhiều lần chúng ta có lời nói đúng đắn, giải pháp hay đột nhiên có cảm hứng nhưng chúng ta không biết  nó từ đâu đến. Tuy nhiên, nó luôn đến đúng lúc. Nó cho thấy rằng có ai đó bên cạnh tôi thì thầm với tôi và luôn chăm sóc tôi.

About Silvana Ramos


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 19/07/2016]


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét