Copyright: Vatican Media
Đức Thánh Cha Phanxico dâng Lễ ở Ma-rốc, đánh dấu Thánh Lễ đầu tiên của Giáo hoàng kể từ sau Thánh Lễ của Thánh Gioan Phaolo II năm 1985
“Người Ki-tô hữu biết rằng trong nhà của Chúa Cha có rất nhiều phòng: những người vẫn đứng ở ngoài là những người chọn cách không chia sẻ niềm vui của Người”
31 tháng Ba, 2019 18:07
Đức Thánh Cha Phanxico dâng Lễ cho cộng đoàn Công giáo nhỏ bé của Ma-rốc, trong chuyến Tông du thứ 28 của ngài, quốc gia thứ 42 ngài đến thăm, và chuyến đi thứ ba đến Châu Phi.
Thánh Lễ của Đức Thánh Cha đánh dấu Thánh Lễ Giáo hoàng đầu tiên ở đó kể từ sau Thánh Lễ của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II năm 1985. ZENIT có mặt trên chuyến bay giáo hoàng đến Ma-rốc, cùng với giám đốc biên tập tiếng Pháp của Zenit, Anita Bourdin.
Trong bài giảng của Đức Phanxico, ngài phân tích về dụ ngôn người con hoang đàng, và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa Cha.
Đề cập đến những khó khăn được nói đến trong dụ ngôn, Đức Phanxico thừa nhận: “Đúng là có nhiều hoàn cảnh có thể gây nên sự chia rẽ và tranh chấp, và có những hoàn cảnh có thể đưa chúng ta đến chỗ đối đầu và phản kháng.”
“Không thể phủ nhận điều này,” ngài nói, và lưu ý rằng chúng ta thường bị cám dỗ tin rằng lòng căm ghét và sự trả thù là những cách hợp pháp để bảo đảm cho sự công bằng nhanh chóng và hiệu quả.
“Tuy nhiên,” Đức Giáo hoàng nhấn mạnh, “kinh nghiệm nói cho chúng ta biết rằng lòng căm ghét, sự chia rẽ, và sự trả thù chỉ thành công duy nhất trong việc giết chết linh hồn các dân tộc, đầu độc niềm hy vọng của con cái chúng ta, và tàn phá và quét sạch mọi sự chúng ta nuôi dưỡng.
Chiêm ngắm trái tim của Chúa Cha
“Và Chúa Giê-su mời gọi chúng ta dừng lại và chiêm ngắm trái tim của Chúa Cha,” Đức Phanxico nhắc nhở rằng: “Chỉ từ cách nhìn đó thì chúng ta mới biết chân nhận lại rằng chúng ta là anh em và chị em của nhau.”
“Chỉ bằng cách chống lại chân trời mênh mông đó thì chúng ta mới có thể vượt qua được những cách suy nghĩ thiển cận và chia rẽ, và nhìn mọi việc theo một cách không thu hẹp những khác biệt của chúng ta nhân danh một sự hiệp nhất cưỡng bức hoặc âm thầm gạt ra bên lề,” ngài nói thêm: “Chỉ bằng cách chúng ta mỗi ngày hướng mắt nhìn lên trời và thưa “Lạy Cha,” thì chúng ta mới có thể trở thành một phần trong tiến trình làm cho chúng ta nhìn thấy mọi việc rõ ràng và dám bỏ đi cách sống như thù địch của nhau nhưng sống như là anh chị em của nhau.”
Đức Thánh Cha nhắc nhở mọi người tham dự rằng người Ki-tô hữu có một lựa chọn trước mặt họ.
“Người Ki-tô hữu biết rằng trong nhà của Chúa Cha có rất nhiều phòng: những người vẫn đứng ở ngoài là những người chọn cách không chia sẻ niềm vui của Người.”
Đức Phanxico tiếp tục cảm ơn họ vì con đường họ làm chứng cho Tin mừng thương xót trên vùng đất này, và vì những cố gắng họ làm trong từng cộng đoàn để trở thành một ốc đảo của lòng thương xót.
Giữ sự gần gũi với những người nhỏ bé
“Cha khuyến khích anh chị em tiếp tục làm cho văn hóa thương xót phát triển, một văn hóa trong đó không ai nhìn đến người khác với sự thờ ơ, hoặc ngoảnh mặt quay đi trước sự đau khổ,” Đức Thánh Cha nói mạnh mẽ: “Hãy giữ sự gần gũi với những người nhỏ bé và người nghèo, và với tất cả những người bị gạt bỏ, bị từ bỏ và bị làm ngơ.”
Đức Phanxico thúc giục, “Hãy tiếp tục là một dấu chỉ của cái ôm yêu thương của Chúa Cha.”
Đức Thánh Cha tiếp tục cầu nguyện, “Nguyện xin Đấng giàu lòng thương xót và lòng trắc ẩn – như những anh chị em Hồi giáo thường xuyên khẩn cầu Ngài – tăng sức cho anh chị em và làm cho công cuộc yêu thương của anh chị em trổ sinh nhiều hoa trái hơn bao giờ hết.”
Dưới đây là văn bản bài giảng của Đức Thánh Cha do Vatican cung cấp:
***
“Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm chồm anh ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15:20).
Câu này trong Tin mừng đưa chúng ta vào trung tâm điểm của dụ ngôn, cho thấy phản ứng của người cha khi nhìn thấy đứa con trai trở về. Vô cùng xúc động, ông chạy ra đón đứa con trước khi nó có thể bước đến nhà. Một đứa con đã được mong chờ từ lâu. Một người cha mừng vui khi nhìn thấy đứa con trở về.
Đó không phải là lần duy nhất người cha chạy. Niềm vui của ông sẽ không trọn vẹn nếu thiếu sự hiện diện của người con cả. Rồi ông ra ngoài tìm anh ta và mời anh ta vào dự tiệc (x. c. 28). Nhưng người con lớn thấy khó chịu vì bữa tiệc mừng em trở về nhà. Anh ta thấy khó mà đón nhận được niềm vui của người cha; anh ta không chấp nhận sự trở về của đứa em: “Thằng con của cha đó,” anh ta gọi đứa em như vậy (c. 30). Đối với anh ta, đứa em vẫn mất tích, vì anh đã đánh mất người em trong lòng mình.
Qua sự thiếu thiện chí tham dự bữa tiệc mừng, người con lớn không những không nhìn nhận đứa em, mà cả cha của anh ta. Anh ta muốn chẳng thà là một đứa con mồ côi hơn là một người anh. Anh ta muốn cách ly sự gặp gỡ, cay đắng trước niềm vui. Anh ta không những không thể hiểu hoặc tha thứ cho đứa em, nhưng anh ta cũng không thể chấp nhận một người cha tha thứ, sẵn sàng kiên nhẫn chờ đợi, tin tưởng và luôn ngóng chờ, để không ai bị gạt ra bên ngoài. Nói tóm lại đó là một người cha giàu lòng trắc ẩn.
Tại ngưỡng cửa của ngôi nhà đó, có một điều thuộc bí mật của nhân loại hiện ra. Về một mặt, tiệc mừng đứa con đã bị mất và được tìm thấy; về mặt khác, một cảm giác phản bội và căm phẫn trước tiệc mừng đánh dấu sự trở về của người em. Về một mặt, sự chào đón dành cho đứa con đã phải trải qua đau khổ và đau đớn, thậm chí tới mức độ muốn ăn thức ăn thừa của heo; về mặt khác, sự phẫn uất và tức giận trước cái ôm dành cho người con không còn xứng đáng.
Những gì chúng ta thấy ở đây là chính sự căng thẳng mà chúng ta thấy được trong các xã hội và trong các cộng đoàn của chúng ta, và thậm chí trong chính tâm hồn chúng ta. Một sự căng thẳng sâu xa bên trong chúng ta ngay từ thời của Ca-in và A-ben. Chúng ta được kêu gọi phải đối mặt với nó và nhìn nhận nó theo đúng bản chất. Vì chúng ta cũng đặt câu hỏi: “Ai có quyền ở giữa chúng tôi, được lấy một chỗ tại bàn ăn và trong các cuộc họp của chúng tôi, trong các hoạt động và những quan tâm của chúng tôi, trong các quảng trường và các thành phố chúng tôi?” Câu hỏi đầy sát khí dường như liên tục nổi lên: “Con là người giữ em con hay sao?” (x. St 4:9).
Tại ngưỡng cửa ngôi nhà đó, chúng ta có thể nhìn thấy những chia rẽ và giận dữ của riêng mình, sự gây hấn và những xung đột luôn rình nấp tại ngưỡng cửa của những lý tưởng cao đẹp của chúng ta, những nỗ lực xây dựng một xã hội huynh đệ, nơi mỗi người có thể trải nghiệm được phẩm giá của một người con trai hoặc con gái.
Nhưng tại ngưỡng cửa của ngôi nhà đó, chúng ta cũng sẽ nhìn thấy toàn bộ sự tỏa rạng rõ ràng, không có chữ “nếu” cũng chẳng có chữ “nhưng”, mong muốn của người cha rằng tất cả những đứa con trai và con gái của mình cùng chia sẻ niềm vui với ông. Rằng không người con nào phải sống trong những hoàn cảnh không phải của con người, như đứa con thứ đã phải trải qua, hoặc phải sống như những đứa con mồ côi, xa cách và cay đắng như người con lớn. Trái tim của Người muốn rằng mọi người nam và nữ được giải thoát và nhận biết chân lý (1 Tm 2:4).
Đúng là có nhiều hoàn cảnh có thể gây nên sự chia rẽ và tranh chấp, và có những hoàn cảnh có thể đưa chúng ta đến chỗ đối đầu và phản kháng. Không thể phủ nhận điều này. Chúng ta thường bị cám dỗ tin rằng lòng căm ghét và sự trả thù là những cách hợp pháp để bảo đảm cho sự công bằng nhanh chóng và hiệu quả. Tuy nhiên, kinh nghiệm nói cho chúng ta biết rằng lòng căm ghét, sự chia rẽ, và sự trả thù chỉ thành công duy nhất trong việc giết chết linh hồn các dân tộc, đầu độc niềm hy vọng của con cái chúng ta, và tàn phá và quét sạch mọi sự chúng ta nuôi dưỡng.
Và Chúa Giê-su mời gọi chúng ta dừng lại và chiêm ngắm trái tim của Chúa Cha. Chỉ từ cách nhìn đó thì chúng ta mới biết chân nhận lại rằng chúng ta là anh em và chị em của nhau. Chỉ bằng cách chống lại chân trời mênh mông đó thì chúng ta mới có thể vượt qua được những cách suy nghĩ thiển cận và chia rẽ, và nhìn mọi việc theo một cách không thu hẹp những khác biệt của chúng ta nhân danh một sự hiệp nhất cưỡng bức hoặc âm thầm gạt ra bên lề. Chỉ bằng cách chúng ta mỗi ngày hướng mắt nhìn lên trời và thưa “Lạy Cha,” thì chúng ta mới có thể trở thành một phần trong tiến trình làm cho chúng ta nhìn thấy mọi việc rõ ràng và dám bỏ đi cách sống như thù địch của nhau nhưng sống như là anh chị em của nhau.
“Tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 15:31), người cha nói với người con lớn. Ông không hàm ý nói quá nhiều về gia tài vật chất, nhưng là sự chia sẻ tình yêu thương và lòng trắc ẩn của mình. Đây là di sản và gia tài lớn nhất của một người Ki-tô hữu. Thay vì đánh giá hoặc phân loại chúng ta theo những tiêu chuẩn đạo đức, xã hội, sắc tộc hoặc tôn giáo, chúng ta cần phải có khả năng nhận biết rằng một tiêu chuẩn khác cũng tồn tại, một tiêu chuẩn mà không ai có thể lấy mất đi hoặc phá hủy vì nó là món quà tinh ròng. Đó chính là sự chân nhận rằng chúng ta là những người con trai và con gái được yêu thương, là những đứa con mà Chúa Cha chờ đợi và mừng vui.
“Tất cả những gì của cha đều là của con,” người cha nói, trong đó gồm cả khả năng động lòng trắc ẩn. Chúng ta đừng rơi vào cám dỗ muốn thu hẹp sự thật chúng ta là anh em dựa trên tiêu chuẩn của các luật lệ và quy tắc, những nhiệm vụ và sự tuân thủ. Bản sắc và sứ mạng của chúng ta sẽ không sinh ra từ những hình thức của thuyết ý chí, tính vụ luật, thuyết tương đối hay duy văn tự, nhưng sinh ra từ tình trạng là những tín hữu hàng ngày khẩn xin với lòng khiêm nhường và sự bền chí: “Nguyện nước Cha trị đến!”
Dụ ngôn Tin mừng để lại cho chúng ta một kết thúc mở. Chúng ta nhìn thấy người cha mời người con lớn vào trong nhà và chia sẻ niềm vui của lòng thương xót. Tác giả Tin mừng không đề cập đến quyết định của người con như thế nào. Anh ta có vào dự tiệc không? Chúng ta có thể hình dung ra rằng kết thúc mở này có ngụ ý để cho từng cá nhân và từng cộng đoàn chúng ta viết. Chúng ta có thể viết trọn đoạn kết bằng cách sống của chúng ta, cách chúng ta nhìn nhận người khác, và cách chúng ta đối xử với tha nhân. Người Ki-tô hữu biết rằng trong nhà của Chúa Cha có rất nhiều phòng: những người vẫn đứng ở ngoài là những người chọn cách không chia sẻ niềm vui của Người.
Anh chị em thân mến, cha cảm ơn anh chị em vì con đường họ làm chứng cho Tin mừng thương xót trên vùng đất này. Cảm ơn vì những cố gắng anh chị em làm trong từng cộng đoàn để trở thành một ốc đảo của lòng thương xót. Cha khuyến khích anh chị em tiếp tục làm cho văn hóa thương xót phát triển, một văn hóa trong đó không ai nhìn đến người khác với sự thờ ơ, hoặc ngoảnh mặt quay đi trước sự đau khổ (x. Tông thư Misericordia et Misera, 20). Hãy giữ sự gần gũi với những người nhỏ bé và người nghèo, và với tất cả những người bị gạt bỏ, bị từ bỏ và bị làm ngơ. Hãy tiếp tục là một dấu chỉ của cái ôm yêu thương của Chúa Cha.
Nguyện xin Đấng giàu lòng thương xót và lòng trắc ẩn – như những anh chị em Hồi giáo thường xuyên khẩn cầu Ngài – tăng sức cho anh chị em và làm cho công cuộc yêu thương của anh chị em trổ sinh nhiều hoa trái hơn bao giờ hết.
[Văn bản chính: tiếng Tây Ban nha] [Văn bản (tiếng Anh) của Vatican]
[Nguồn: zenit]
[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 1/4/2019]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét